TỪ BI HỶ XÃ

 






  


  TÓM TẮT CĂN BẢN PHẬT GIÁO   

   Hỏi: Phật Giáo là gì?

   Đáp: Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh". Phật Giáo phát nguồn từ hơn 2,500 năm trước, khi Ngài Siddhattha Gotama (Sĩ Đạt Ta Cồ Đàm), hay Đức Phật, tự mình giác ngộ vào lúc 35 tuổi.

 

   Hỏi: Có phải Phật Giáo chỉ thuần là một tôn giáo?

   Đáp: Đối với nhiều người, Phật Giáo không phải chỉ là một tôn giáo mà còn có thể xem như là một triết học, hay đúng hơn, đó là "một lối sống". Gọi Phật Giáo là một triết học, vì danh từ "triết học - philosophy" có nghĩa là "sự yêu chuộng trí tuệ", và con đường của đạo Phật có thể tóm tắt như sau:

    (1) Sống có đạo đức,

    (2) Nhận thức rõ ràng về mọi ý nghĩ và hành động

    (3) Phát triển sự hiểu biết và trí tuệ

 

   Hỏi: Phật Giáo giúp tôi bằng cách nào?

   Đáp: Phật Giáo giải thích mục đích của đời sống, giải thích hiện tượng bất công và bất bình đẳng trên thế gian, và cung ứng một phương cách thực hành hay một lối sống để đưa đến hạnh phúc thật sự.

 

   Hỏi: Tại sao Phật Giáo trở nên phổ biến?

   Đáp: Phật Giáo ngày càng phổ biến ở các nước Tây phương vì nhiều lý do. Thứ nhất là vì Phật Giáo có những giải đáp cho nhiều vấn đề trong các xã hội vật chất hiện đại. Tiếp đến, cho những ai có chú tâm, Phật Giáo cung ứng một sự thông hiểu sâu sắc về tâm trí con người và các cách trị liệu tự nhiên, mà các nhà tâm lý nổi tiếng trên thế giới đều công nhận là rất cao cấp và rất hiệu quả.

 

   Hỏi: Đức Phật là ai?

   Đáp: Ngài Siddhattha Gotama sinh ra vào năm 563 trước Tây Lịch, trong một hoàng tộc tại Lumbini, nay thuộc xứ Nepal. Vào năm 29 tuổi, Ngài nhận thức rằng tiện nghi vật chất và an ninh trong thế gian không bảo đảm hạnh phúc; vì thế, Ngài đi tìm học các lời dạy, tôn giáo và triết học thời đó, để tìm kiếm chìa khóa đưa đến hạnh phúc. Sau sáu năm học tập và hành thiền, Ngài tìm ra con đường "Trung Đạo" và giác ngộ. Sau khi chứng đắc, Ngài dùng quảng đời còn lại tại thế gian để truyền giảng các nguyên lý trong đạo Phật - gọi là Pháp, hay chân lý, cho đến khi Ngài nhập diệt vào năm 80 tuổi.

 

   Hỏi: Có phải Đức Phật là Thượng Đế?

   Đáp: Không, Ngài không là Thượng Đế, và Ngài cũng không tuyên bố như thế. Ngài là người giảng dạy con đường đưa đến giác ngộ, từ kinh nghiệm thực chứng của Ngài.

 

   Hỏi: Phật tử có tôn thờ các thần tượng không?

   Đáp: Những người Phật tử tỏ lòng tôn kính các hình ảnh của Đức Phật, nhưng không tôn thờ, cũng không van xin những điều lợi lạc. Một pho tượng Phật ngồi trong tư thế với hai tay dịu dàng đặt trên vế, với nụ cười từ bi, nhắc nhở chúng ta nỗ lực phát triển tình thương và an định nội tâm. Lễ lạy tượng Phật là để tỏ lòng biết ơn về các lời dạy của Ngài.

 

   Hỏi: Tại sao nhiều quốc gia Phật Giáo lại nghèo như vậy?

   Đáp: Không hẳn đúng như vậy. Nhật Bản là một quốc gia có truyền thống Phật Giáo sâu đậm và ngày nay cũng là một quốc gia có kinh tế giàu mạnh. Thái Lan, với Phật Giáo là quốc giáo, cũng có một nền kinh tế tương đối vững mạnh và phát triển. Tuy nhiên, chúng ta cần biết rằng một trong các điều dạy của Phật Giáo là tài sản của cải không bảo đảm được hạnh phúc, và tài sản của cải cũng không bao giờ thường còn. Dân chúng trong bất kỳ quốc gia nào cũng chịu đau khổ, cho dù họ giàu sang hay nghèo nàn. Chỉ những người nào thông hiểu các lời dạy trong Phật Giáo thì mới có thể tìm được hạnh phúc thật sự.

 

   Hỏi: Có phải có nhiều tông phái Phật Giáo không?

   Đáp: Có nhiều tông phái trong Phật Giáo là vì có những khác biệt về văn hóa và truyền thống lịch sử của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, căn bản của Phật Giáo vẫn không thay đổi, đó là Pháp hay chân lý.

 

   Hỏi: Có phải các tôn giáo khác đều sai lầm?

   Đáp: Phật Giáo là một hệ thống tín ngưỡng có tính bao dung đối với các tín ngưỡng hay tôn giáo khác. Phật Giáo chấp nhận các lời giảng đạo đức của các tôn giáo khác, nhưng Phật Giáo còn tiến xa hơn, bằng cách cung ứng một mục tiêu dài hạn trong sự hiện hữu của chúng ta, qua trí tuệ và sự hiểu biết thật sự. Phật Giáo chân chính thì rất bao dung, và không quan tâm chi đến các nhãn hiệu như là "tín hữu Ky Tô Giáo", "tín hữu Hồi Giáo", "tín hữu Ấn Độ giáo", hay "Phật tử". Vì vậy, trong lịch sử, không bao giờ có các cuộc thánh chiến mang danh Phật Giáo. Cũng vì thế mà những người Phật tử không đi truyền giảng hay cải đạo người khác; họ chỉ giảng giải nếu được ai hỏi đến.

 

   Hỏi: Phật Giáo có tính khoa học không?

   Đáp: Khoa học là tri thức được kết hợp thành hệ thống, qua các dữ kiện được quan sát và thực nghiệm và đề ra các định luật tổng quát của thiên nhiên. Cốt lõi của Phật Giáo phù hợp với định nghĩa đó, bởi vì Tứ Diệu Đế hay Bốn Sự Thật Thâm Diệu, có thể được thử nghiệm và minh chứng bởi bất kỳ người nào, và ngay chính Đức Phật cũng đã từng nói với các đệ tử rằng họ phải thực chứng các lời dạy của Ngài, mà không nên chỉ tin suông. Phật Giáo dựa nhiều trên trí tuệ, hơn là lòng tin.

 

   Hỏi: Đức Phật đã dạy những gì?

   Đáp: Đức Phật đã giảng dạy rất nhiều đề tài, nhưng các điều căn bản trong Phật Giáo có thể tóm tắt trong Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo.

 

   Hỏi: Diệu đế thứ nhất là gì?

   Đáp: Khổ Đế, chân lý thâm diệu đầu tiên, nói rằng đời sống là đau khổ, nghĩa là phải chịu đau đớn thể xác, già nua, bệnh hoạn, rồi chết. Ta cũng phải chịu đau khổ về mặt tâm lý như cô đơn, phiền giận, bực bội, sợ hãi, bối rối, thất vọng, sân hận. Đây là một sự kiện hiển nhiên, không thể chối cãi. Đây là thực tế khách quan, không phải bi quan; vì bi quan là mong đợi những điều gì trở nên tệ hại. Mặt khác, Phật Giáo giải thích cách thức giải quyết các đau khổ đó và cách thức để có hạnh phúc thật sự.

 

   Hỏi: Diệu đế thứ nhì là gì?

   Đáp: Tập Đế, chân lý thâm diệu thứ nhì, dạy rằng tất cả mọi đau khổ đều do ái dục và tham thủ. Ta sẽ bị phiền khổ nếu ta mong đợi người khác phải tuân theo ý muốn của mình, phải làm giống như mình, nếu ta không được những gì mình muốn, v.v. Ngay cả khi ta muốn và được, điều này cũng không bảo đảm có hạnh phúc. Tâm khát khao ham muốn cướp đoạt của ta niềm vui được thỏa lòng và hạnh phúc. Thay vì kiên trì chiến đấu để thành đạt điều mong muốn, hãy cố gắng sửa đổi chính cái lòng ước muốn của mình.

 

   Hỏi: Diệu đế thứ ba là gì?

   Đáp: Diệt Đế, chân lý thâm diệu thứ ba, là có thể chấm dứt đau khổ và đạt được trạng thái thỏa lòng và hạnh phúc. Khi ta dứt bỏ ái dục, vốn là vô ích, và tập sống từng ngày, chúng ta bắt đầu sống an vui và tự do. Chúng ta sẽ có nhiều thì giờ và năng lực để giúp đỡ người khác. Trạng thái ấy được gọi là Niết Bàn.

 

   Hỏi: Diệu đế thứ tư là gì?

   Đáp: Đạo Đế, chân lý thâm diệu thứ tư, là con đường đưa đến chấm dứt đau khổ. Con đường này gọi là Bát Chánh Ðạo.

 

   Hỏi: Bát Chánh Đạo là gì?

   Đáp: Đó là con đường gồm 8 yếu tố chân chánh:

  •  Chánh kiến ( hiểu biết đúng đắn ).
  •  Chánh tư duy ( suy nghĩ chân chính ).
  •  Chánh ngữ ( lời nói chân chính, trung thực ).
  •  Chánh nghiệp ( hành động chân chính, không làm việc giả dối ).
  •  Chánh mạng ( sống chân chính, không tham lam, vụ lợi xa rời nhân nghĩa ).
  •  Chánh tinh tấn ( cố gắng nổ lực chân chính ).
  •  Chánh niệm ( suy niệm chân chính ).
  •  Chánh định ( kiên trì tập trung vào con đường chân chính, không để bất kỳ điều gì lai  chuyển làm thoái chí, phân tâm ).

   Đây là con đường của đạo đức và tỉnh thức - qua lời nói, ý nghĩ và hành động, và phát triển trí tuệ bằng sự nhận thức rõ ràng về Tứ Diệu Đế và bằng sự tăng trưởng lòng từ bi.

 

   Hỏi: Ngũ giới là gì?

   Đáp: Đây là năm điều giới luật đạo đức của Phật Giáo. Đó là: không sát hại, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói dối, và không dùng các chất say làm lu mờ trí óc.

 

   Hỏi: Nghiệp là gì?

   Đáp: Nghiệp hay "nghiệp quả" là một định luật cho biết rằng mỗi một nguyên nhân đều tạo ra một hậu quả, có nghĩa là các hành động của ta đều có những hậu quả. Định luật đơn giản này đã giải thích nhiều vấn đề: sự bất công trên thế gian, tại sao có người sinh ra lại có phế tật, có người lại có nhiều tài năng, có người có đời sống rất ngắn ngủi. Nghiệp cho thấy tầm quan trọng về việc tất cả chúng ta phải chịu trách nhiệm về các hành động của chính mình, trong quá khứ và hiện tại. Làm thế nào để thử nghiệm tác động nghiệp quả của các hành động của ta? Câu trả lời được tóm tắt bằng cách hãy nhìn xem 3 điểm chính:

   (1) Ý định đằng sau của mỗi hành động

   (2) Hậu quả của hành động đó vào chính mình

   (3) Hậu quả của hành động đó vào những người khác.

 

   Hỏi: Trí tuệ là gì?

   Đáp: Trong Phật Giáo, trí tuệ phải được phát triển cùng với từ bi. Trong một cực đoan, bạn có thể là một người tốt bụng nhưng khờ dại, và trong một cực đoan khác, bạn có thể có nhiều kiến thức nhưng lại không có tình cảm. Phật Giáo dạy ta nên giữ thật sự cân bằng và trọn vẹn cả hai, phải trau giồi cả trí tuệ lẫn và từ bi. Trí tuệ cao nhất là thấy rõ ràng rằng trên thực tế, mọi hiện tượng đều không hoàn toàn, không thường còn, và không có một thực thể cố định. Trí tuệ thật sự không phải chỉ vì tin vào những gì được dạy, mà phải chứng nghiệm và thông hiểu chân lý và thực tế. Trí tuệ đòi hỏi phải có một tâm ý rộng mở, khách quan, không cố chấp. Con đường của Phật Giáo đòi hỏi phải can đảm, nhẫn nhục, mềm dẻo và thông minh.

 

   Hỏi: Từ bi là gì?

   Đáp: Từ bi bao gồm các phẩm hạnh của lòng san sẻ, sẳn sàng an ủi người khác, thiện cảm, chăm lo và ưu tư. Trong Phật Giáo, ta chỉ thật sự cảm thông người khác khi nào ta thật sự cảm thông chính mình, qua trí tuệ.

 

   Hỏi: Tôi phải làm thế nào để trở thành một Phật tử?

   Đáp: Bất cứ ai cũng có thể tìm hiểu và thực nghiệm các lời dạy của Đức Phật. Ngài dạy rằng lời giải đáp cho mọi vấn đề của chúng ta là ở bên trong chúng ta, không phải ở bên ngoài. Ngài nói với các đệ tử không được tin ngay vào lời dạy của Ngài, mà họ phải tự thử nghiệm các lời dạy đó. Như thế, mỗi người tự có quyết định và tự chịu trách nhiệm về các hành động và sự hiểu biết của mình. Điều này cho thấy Phật Giáo không phải là một tập hợp cố định các tín điều cần phải được chấp nhận trọn vẹn. Đây là những lời dạy để mỗi người tự tìm hiểu, học tập và áp dụng theo tình huống riêng của mình.

 

Bình Anson lược dịch,
Perth, Tây Úc, tháng 8-2004

 




  

   TẠI SAO TÔI TU THEO ĐẠO PHẬT?

   Nếu quý vị còn băn khoăn tại sao phải học và tu tập theo Phật Pháp, bài viết này có thể sẽ giải đáp được ít nhiều cho quý vị. A Di Đà Phật...

   Trên thế gian có khá nhiều đạo giáo, tại sao tôi chọn Đạo Phật để tu theo? Bởi vì Phật pháp đáp ứng được tâm tư nguyện vọng của tôi. Người đi tu cốt tìm chân lý, nơi nào giải rõ chân lý một cách cụ thể thì có sức hấp dẫn người tu dừng nơi đó. Chúng ta đi tu là hiến dâng cả cuộc đời cho chân lý, nếu không chọn lựa kỹ càng lỡ đi lệch đường thì rất uổng cho kiếp hy sinh. Mang cả tâm hồn trong sáng của một người phát nguyện đi tu, vô lý chúng ta cam đem nó chôn vùi dưới đống bùn nhơ. Cho nên trước khi bước chân vào một đạo giáo nào, chúng ta phải nhận định chín chắn dò xét tận tường, sau đó mới thực hiện bản nguyện của mình. Đến với Đạo Phật, tôi rất hài lòng với những điều Phật dạy, xin lược kể một số vấn đề căn bản sau đây:

 

   I - ĐẠO PHẬT NÓI SỰ THẬT.

   1- Lý vô thường.

   Phật giáo thường nhắc nhở chúng ta "Vạn vật trên thế gian là vô thường". Từ con người đến muôn vật luôn chuyển biến liên tục như dòng thác đổ không một phút giây dừng nghĩ. Nơi con người tế bào này sanh, tế bào kia diệt, sanh diệt, diệt sanh nối tiếp không ngừng, mãi đến khi thân này hoàn toàn bại hoại. Ở sự vật các nguyên tử cũng quay cuồng sinh diệt, thay đổi không bao giờ an trụ. Sự tồn tại của người và vật trong vòng luân chuyển biến động, dừng chuyển động thì con người chết, sự vật hoại, nên nói "sống động". Sự chuyển động liên tục gọi là sát na vô thường. Nếu chia từng phần, chặn từng đoạn để khảo sát ở con người và động vật có bốn tướng: sanh, già, bệnh, chết; loài thực vật có bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt; loại khoáng chất cho đến quả địa cầu có bốn tướng: thành, trụ, hoại, không, gọi chung là Nhất Kỳ Vô Thường. Đây là lẽ thật, là chân lý trong thế gian này. Có lắm người không thấu suốt lý vô thường, cứ ảo tưởng ta sống lâu mãi, một khi già bệnh chết đến thì kinh hoàng sợ hài, than thở, khổ đau. Do ảo tưởng ta mạnh khỏe sống dai, dù có thấy người già bệnh chết vẫn dửng dưng, cứ nghĩ đó là việc của người không can hệ gì đến ta. Từ chỗ không thấy hiểu lý vô thường khiến họ nhìn đời một cách ngây thơ, khờ khạo, khi nghe cái chết sắp đến mình, họ đâm ra sợ hãi, hốt hoảng, cầu cứu, khóc than. Ngược lại, người thâm nhập lý vô thường sẽ vững vàng chững chạc đứng nhìn cái già chết đến với một nụ cười. Người này biết rằng vô thường là lẽ thật chi phối tất cả thế gian không một ai trốn thoát được, dù muốn chạy trốn hay kêu khóc van xin chỉ khổ tâm nhọc thân vô ích. Chi bằng: "Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi, Thịnh suy như cỏ hạt sương đông" (Thiền Sư Vạn Hạnh) Có phải thảnh thơi chăng? Do nhận chân được lý vô thường con người gan dạ cứng cỏi, không phải hèn nhát yếu đuối như người ta tưởng. Có nhiều người nghe Phật nói lý vô thường, họ cho là tinh thần bi quan yếm thế. Họ đâu ngờ, kẻ hiểu được lý vô thường càng nỗ lực tu hành, nỗ lực làm lợi ích chúng sanh, hãy nghe câu "Cần tu như lửa cháy đầu...", vì họ biết qua mất một ngày không thể nào tìm lại được. Để thêm can đảm, chúng ta cần nghiên cứu lẽ thật của lý nhân quả.

    2 - Lý nhân quả.

   Con người mắc phải một bệnh rất trầm trọng là trốn tránh trách nhiệm, mọi việc xấu tốt hay dở trong đời mình đều đổ trúc do tạo quá sắp đặt, do số mệnh định sẵn, cam phận chờ đợi phải sao chịu vậy. Quả là một quan niệm sai lầm quá lớn, tự tước bỏ hết quyền làm chủ của con người. Phật giáo vạch rõ cho chúng ta thấy mọi thành công, thất bại, tất cả khổ vui trong đời mình đều do ta làm chủ quyết định. Đây là căn cứ trên lẽ thật của lý nhân quả, vì mọi kết quả hình thành đều xuất phát từ nguyên nhân của nó. Động vật, thực vật... trong vũ trụ sanh thanh, hoại diệt đều từ nguyên nhân đến kết quả, không có ngẫu nhiên thành, không có bàn tay vô hình nào sắp đặt xây dựng tương lai theo ý muốn của chúng ta. Sự khổ vui đã đến và sẽ đến, chúng ta can đảm chấp nhận, không than trách, không van xin, tự ta biết rõ kết quả nào cũng từ nguyên nhân chúng ta đã tạo. Chỉ cần khôn ngoan gặp quả khổ khéo chuyển đổi thành vui, được quả vui không cống cao tự đắc mà khiêm tốn vun bồi thêm nhân tốt cho mai sau. Gặp khổ than thở, oán hờn, gặp vui tự cao ngạo mạn là thái độ của kẻ si mê hèn yếu. Người biết rõ nhân quả dè dặt từ, ý nghĩ, lời nói hành động của ta, vì khẳng định rằng ý nghĩ xấu, lời nói ác hành động tội lỗi là gieo nhân đau khổ, sớm muộn quả đau khổ sẽ đến với ta. Trái lại, ý nghĩ tốt, lời nói lành, hành động nhân đạo là gieo nhân vui, sớm muộn quả vui sẽ đến. Nếu sợ quả khổ thì không sợ ai bằng sợ mình, muốn được quả vui không van xin ai bằng van xin mình. Ta là chủ nhân đặt định cuộc đời hiện tại và tương lai khổ vui của ta, tất cả quyền năng vô hình phi lý không còn chỗ xen vào cuộc đời của ta. Chúng ta có thẩm quyền tuyên bố rằng: “chúng tôi tôn trọng nhân quyền”. Khoa học ngày nay chứng minh cụ thể lẽ thật của nhân quả. Sự phân tích của khoa học đều căn cứ trên quả để phăng tìm nguyên nhân, không một quả nào mà chẳng có nguyên nhân, do nắm chắc nguyên nhân các nhà khoa học chế tạo kết quả theo ý muốn của họ. Ngày nay, chúng ta thấy khoa học có đầy đủ vạn năng do khéo sử dụng triệt để lý nhân quả, chúng ta có thể nói “không có nhân quả thì không có khoa học”. Tuy nhiên khoa học mới ứng dụng được nhân quả trên hình tướng vật chất, phần tâm linh khoa học chưa sờ mó đến. Người tu theo Đạo Phật không những biết rõ lý nhân quả của vật chất mà còn thấu suốt nhân quả của tâm linh. Bài pháp đầu tiên Phật dạy nhóm Ông Kiều Trần Như thuộc về nhân quả tâm linh. Hiện tại quả Khổ là từ tập nhân, quả Diệt là từ đạo nhân, đây là bốn lẽ thật không thể sai chạy hay chối cãi được gọi là pháp Tứ Đế. Bốn thứ nhân quả tâm linh này chúng ta biết rõ khéo sử dụng và điều phục được là dứt sạch phiền não đau khổ, chứng quả an lạc Niết Bàn. Song ngày nay có những người tự xưng là trưởng tử Như Lai mà không hiểu nhân quả, không ứng dụng nhân quả tu hành, lại bày ra lắm trò lừa đời bịp chúng, thật là đáng buồn. Nhân quả đã không hiểu thì làm sao thâm nhập được lý nhân duyên.

    3 - Lý nhân duyên

   Người cha dẫn đứa con mười tuổi ra đứng dựa bờ sông, thằng bé hỏi: “Tại sao có sông?” Muốn nó khỏi thắc mắc, cha trả lời: “Trời sanh”. Thấy dòng nước chảy, bé hỏi: “Tại sao có nước?” Cha đáp: “Trời sanh”. Bé hỏi: “Trời ở đâu?” Cha đáp: “Ở trên xanh thăm thẳm đó”. Bé yên lòng không còn thắc mắc gì nữa. Sự vật ở trong thế gian không đơn giản, vì sự hiểu biết giới hạn của con người nên giải quyết như thế cho tạm ổn. Đạo Phật không chấp nhận sự đánh lừa ấy nên nói lý Nhân Duyên. Tất cả hình tướng vật thể trên thế gian đều do sự kết tụ nhiều nhân hợp thành, không một vật nào ngẫu nhiên có hay một nhân tạo nên, mà phải nhiều nhân chung hợp, sự chung hợp là duyên. Lý Nhân Duyên là lẽ thật, các nhà khoa học đã phân tích cụ thể rồi không còn gì phải nghi ngờ, thắc mắc. Trong kinh Phật phân tích đơn giản thân này do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) hay ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hợp thành, nếu chia chẻ tế vi hơn thì có vô số hộ trùng và hoại trùng đang tranh đấu bảo vệ và phá hoại. Cho nên kinh nói: “Trong thân người vô số vi trùng đang trú ngụ bên trong”. Ngày nay khoa học phân tích trong thân người có bao nhiêu tỷ tế bào sinh hoạt, trong sự vật có vô số nguyên tử... kết tụ thành. Đã là nhân duyên thì mọi hình tướng đều không có thật thể, không cố định. Nhân duyên tụ hợp thành hình thì cái gì là thật thể? Nhân duyên luôn luôn sanh diệt biến động thì làm sao cố định? Một vật không có thật thể, cố định thì ai dám bảo là vật thật, cho nên Phật dạy “Sắc tức là không, không tức là sắc” hay “Phàm vật gì có tướng đều là hư dối”. Nói đến nhân duyên là thừa nhận sự liên đới ràng buộc chằng chịt giữa người với người, người với muôn vật rất mật thiết. Không ai có thể tách rời mình với mọi người, mình với muôn vật được, nên phải kính trọng người, phải thương yêu muôn vật, vì “Mình là tất cả, tất cả là mình”. Do những lẽ thật đã dẫn ở trên hấp dẫn tôi bước chân vào cửa Phật. Được nghe lời Phật dạy con mắt trí tuệ tôi lóe sáng đôi phần, song tôi thèm khát muốn được mở sáng hơn nữa, đấy là phần trí tuệ ở sau.

 

    II – ĐẠO PHẬT ĐẶT GIÁC NGỘ TRÊN HẾT.

   Thái Tử Tất Đạt Đa nếu không giác ngộ dưới cội Bồ Đề thì không có Đạo Phật. Bản thân Đạo Phật là giác ngộ, không giác ngộ là không phải Đạo Phật. Những bậc tu hành chứng đạo quả đều là người giác ngộ. Bồ Tát là hữu tình giác hay giác hữu tình; Duyên giác là giác ngộ pháp nhân duyên; A La Hán là giác ngộ pháp Tứ Đế. Chư Tổ truyền thừa chánh pháp trên 2000 năm cũng là truyền thừa sự giác ngộ. Người sau minh họa sự truyền thừa ấy bằng hình ảnh “trao đèn nối đuốc” (Truyền đăng tục diệm), tức là đèn tuệ thường chiếu rọi, đuốc tuệ mãi soi đường. Trí tuệ là ngọn đèn, là cây đuốc soi sáng đưa người ra khỏi lối vô minh. Cho nên giáo pháp Phật dạy, pháp nào cũng đặt trí tuệ là trọng yếu. Các kinh A Hàm nói Bát Chánh Đạo thì hai đạo đầu là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy. Kinh Bát Nhã nói pháp Lục Độ thì hai độ cuối là Thiền Định và Trí Huệ. Người mới vào đạo phải học Tam Huệ: Văn Huệ, Tư Huệ, Tu Huệ. Những kẻ tu hành tiến sâu vào giải thoát phải thực hành: Giới Luật, Thiền Định, Trí Huệ. Các cấp bậc người tu khác nhau đều căn cứ giác ngộ làm vị thứ. Phân chia giáo lý cao thấp đều lấy trí huệ làm nền tảng. Đạo Phật xem trọng trí huệ, vì nó là ngọn đèn soi sáng khiến người thấy được chân lý của cuộc đời, cũng nhờ ngọn đuốc trí tuệ soi đường người tu thoát khỏi cái khổ đêm dài u tối vô minh. Cũng nhờ ngọn đèn đuốc trí huệ người tu mới hướng dẫn được những kẻ lầm đường lạc lối tránh khỏi xa hố sục hầm. Nếu không có trí tuệ, chẳng biết người tu sẽ làm gì để cứu độ chúng sanh. Nhân loại hiện nay cũng biết quý trọng chất xám, vì chất xám ném vào nông nghiệp thì đất đai màu mỡ thu hoạch vượt trội; chất xám ném vào công nghiệp thì kỷ thuật tiên tiến thành phẩm xuất sắc; chất xám ném vào chánh trị thì quốc gia hưng thịnh xã hội văn minh... Chất xám giải quyết được sự thiếu thốn nghèo nàn của những quốc gia chậm tiến. Nhờ biết sử dụng chất xám, các quốc gia lạc hậu chậm tiến được vươn lên. Đạo Phật xem trọng trí huệ ngang hàng với từ bi. Trí huệ và từ bi phải đi song đôi, phải cân bằng không được chênh lệch. Có trí huệ mà thiếu từ bi là trí huệ khô (càn huệ), có từ bi mà không trí huệ là từ bi mù quáng (si từ). Từ bi và trí tuệ như chim hai cánh, chích một cánh là không thể bay được. Song trên thế giới hiện nay người ta đầu tư cho con tim. Có chất xám mà thiếu con tim thì chất xám sẽ bị bại hoại. Sự mất thăng bằng này là một tai họa không thể lường của nhân loại về sau!


   III- ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO TỪ BI.

   Đạo Phật dạy từ bi không đặt nặng lý thuyết, mà chú trọng thực hành. Người vừa đặt chân vào cửa Phật bắt buộc phải giữ 5 giới. Chỉ giữ 5 giới thôi cũng đủ thể hiện lòng từ bi. “Không sát sanh là tôn trọng sanh mạng của người và vật. Không trộm cướp là tôn trọng sự nghiệp tài sản của người. Không tà dâm là là tôn trọng hạnh phúc gia đình mình và gia đình người. Không nói dối là giữ uy tín của mình và tôn trọng phẩm giá người. Không uống rượu, hút á phiện, xì ke ma túy là bảo vệ sự sáng suốt và sức khỏe của mình, đồng thời tôn trọng an ninh trật tự xã hội”. Nếu là tu sĩ xuất gia, Phật cấm không được vô cớ mà ngắt một cộng cỏ tươi, bẻ một cành cây xanh, cũng không được hủy hoại mầm sống của muôn vật. Không làm phiền làm hại người và mọi vật, đây là thể hiện thực tế lòng từ bi. Tuy nhiên, phần từ bi này còn mang vẻ tiêu cực, phải tiến lên một bước xông xáo cứu giúp mọi người, làm lợi ích chúng sanh thực hiện hạnh bố thí mới là tích cực. Bố thí là ban cho hay giúp đỡ, giúp đỡ những người gặp khó khăn hoạn nạn, động cơ bố thí là tình thương. Giúp đỡ mà không có tình thương thì không phải làm hạnh bố thí. Có những người đến chùa gặp những ngày lễ lớn, vào buổi chiều cúng cô hồn, sau khi cúng xong tất cả quà bánh trên bàn đem tung vãi các nơi, bọn trẻ con đua nhau giàng giựt, gọi là thí cô hồn. Họ hiểu lầm tưởng bố thí cũng đem quăng ném một cách vô ý thức như vậy. Cho nên cần bố thí ai vật gì, họ cứ ném như thế, hoặc có bị đánh cắp vật gì, họ nói bố thí cho nó đi. Bố thí phải đủ hai yếu tố tình thương và quý trọng người mình biếu tặng. Vì thương yêu quý trọng ta giúp đỡ một cách chân tình cho những người khó khăn thiếu thốn, mới đúng tinh thần bố thí của đạo Phật. Tài vật dù ít dù nhiều không quan trọng, mà quan trọng ở tình thương quý kính người mình cứu giúp. Người gặp cảnh khổ đau buồn tủi, đó là nguồn an ủi to lớn cho người bất hạnh. Không chỉ dùng tiền bạc vật dụng giúp đỡ người mới gọi là bố thí, nếu ta có khả năng đủ phương tiện tạo công ăn việc làm cho người thất nghiệp, giúp vốn cho người cần vốn làm ăn, hoặc dùng công sức mình giúp đỡ người cần giúp đỡ... cũng là tu hạnh bố thí. Những công tác giúp đỡ người vì tình thương, vì quý kính đều thể hiện lòng từ bi qua hành động bố thí. Tuy nhiên con người không phải chỉ khổ vì thiếu cơm ăn áo mặc, mà còn khổ vì tâm thần bất an, buồn phiền lo sợ..., hoàn cảnh này phải nhờ chánh pháp để cứu giúp họ. Phật pháp sẽ mở sáng con mắt trí huệ cho ta nhìn thấy lẽ thật trong cuộc sống. Mọi khổ đau do ảo tưởng của ta tạo ra, một khi thấy lẽ thật chúng đều tan biến như ánh nắng tan biến sương mù. Con người phần lớn sống bằng mơ tưởng ảo huyền, khi chạm sự thật bất như ý đâm ra bất mãn thất chí khổ đau. Thấu triệt được lẽ thật, con người không còn đau khổ bâng quơ, mà được bình an, thanh thản trong cuộc sống hiện tại. Bác sĩ đến chẩn mạch và chích thuốc cho một cho một đứa bé và một người lớn. Vừa thấy ống thuốc gắn kim, chích vào thịt, đứa bé khóc la inh ỏi, trái lại người lớn cũng thấy và bị chích như thế, mà vui vẻ cám ơn Bác sĩ. Người thấy rõ chân lý cuộc đời, họ chỉ vui cười chớ không kêu khóc oán hờn. Kẻ mê muội sống bằng ảo tưởng, lúc nào họ cũng oán trách, than phiền, đau khổ. Cho nên Phật xem trọng bố thí pháp hơn bố thí tài. Bố thí tài chỉ giúp người giải khổ tạm thời trong cấp bách, bố thí pháp mới đem lại sự an bình vĩnh cửu cho con người. Do đó, tu sĩ Phật giáo lấy bố thí pháp làm trọng tâm đem lại lợi ích cho chúng sanh. Đạo Phật quý trọng mạng sống con người và muôn vật, vì loài nào cũng ham sống sợ chết. Trên lẽ công bằng, ta ham sống người vật cũng ham sống, vô lý vì sự sống của mình mà tàn hại sự sống của người vật khác. Thế nên người Phật tử không sát hại người vật, mà còn cứu mạng phóng sanh. Tình thương bao la khắp muôn loài, muốn tất cả đều được an vui, cường tráng sống lâu, đây là lòng từ bi của đạo Phật. Thiếu lòng từ bi thì đạo Phật sẽ khô cằn, vì vậy lòng từ bi được biểu trưng bằng nước cam lồ. Chúng sanh bị lửa hận thù thiêu đốt, bị nắng phiền não cháy da, bị sức nóng lo sợ khô cổ, gặp nước cam lồ tưới mát thì mọi đau khổ đều tiêu tan, nên nói từ bi đến đâu thì đau khổ mất dạng đến đó. Lòng từ bi không nỡ giết hại, không đành cột trói người vật, mà luôn luôn giúp đỡ buông tha cho tất cả được tự do, thong thả.

 

   IV- ĐẠO PHẬT TÔN TRỌNG TỰ DO.

   Con người ai không thích thong thả, tự do, có sự ép buộc kềm chế từ bên ngoài là mất tự do. Vì thế người đến với đạo Đạo Phật không có điều kiện gì cả, chỉ cần tâm mến đạo, thích tu là đủ. Sau khi thành Phật tử cũng không có sự bắt buộc nào, thích đi chùa thì đến, không thích ở nhà tu cũng được. Khi phát tâm quy y có khuyến khích giữ năm giới, chẳng qua là phương tiện đem lại sự an bình cho Phật tử đó thôi. Song tôn trọng tự do có lợi với người biết nhận thức có ý chí mạnh, sẽ bất lợi với người kém nhận thức và ưa chểnh mảng. Tinh thần tôn trọng “Tự giác tự nguyện” của Phật tử, Đạo Phật không tạo điều kiện kềm chế thúc ép nào. Cho đến khổ đau và an vui của con người, đạo Phật nói rõ đều do con người tự do tạo lấy. Phật không có quyền can thiệp khổ vui của con người. Ngài chỉ là người hướng dẫn chỉ đường cho những ai muốn tránh khổ tìm vui, mọi khổ vui đều do con người quyết định. Ai muốn an vui thì trước phải đem sự an vui lại cho mọi người. Chẳng có ai cầm cân nẩy mực ban phước xuống tội cho chúng ta. Hành động tốt của ta sẽ mang vui cho ta, hành động xấu của ta sẽ chuốc đau khổ cho ta. Ta là chủ nhân ban phước giáng họa cho ta, con người tự do chọn khổ lựa vui, không đổ thừa, không lệ thuộc thế lực vô hình bên ngoài. Hơn nữa, tự do không đòi hỏi ở đâu, nơi ai, chính ta thắng được mọi cám dỗ bên ngoài là tự do. Mọi sắc tài danh lợi không lôi cuốn được ta là tự do. Người đời miệng luôn nói tự do đòi tự do, mà ghiền rượu, mê sắc, hiếu danh... không bao giờ được tự do? Tự do là chân giá trị của con người, song muốn tự do ta phải đủ nghị lực chiến thắng bọn ma: sắc, tài, danh, lợi..., chúng biến hóa thiên hình vạn trạng quyến rũ dụ dỗ ta rơi vào trận mê hồn của chúng. Chúng ta không một bề đổ lỗi cho bọn nó, mà phải nhìn tận nội tâm mình. Trong tâm ta sẵn sàng mến khách, khách mời rủ mới chạy theo. Nếu mọi ái dục bên trong đã lạnh nhạt khô khan thì chúng làm gì quyến rũ được. Ta phải can đảm chiến thắng bọn quỉ vương ở nội tâm thì đám yêu quái sắc tài bên ngoài sẽ đầu hành. Cái gốc tham mê ái dục đã nhổ thì cành lá phiền não đâu còn nảy sanh. Hồ nước tâm đã lóng sạch trong veo và gạn lọc hết bùn nhơ, dù có gió mạnh thổi, mặt nước dậy sóng vẫn không ngào đục. Dứt sạch mầm tâm mê luyến trần cảnh là ta thật sự tự do. Nhân tự do đưa đến quả giải thoát. Giải thoát không phải sang thế giới kỳ đặc ở bên kia, không phải ngao du trong cảnh huyền bí mầu nhiệm, mà ngay nơi này tâm không dính mắc sáu trần là giải thoát. Còn dính mắc là trói buộc, không dính mắc là tự do giải thoát. Sự trói buộc dính mắc không phải lỗi ở sáu trần mà lỗi ở nội tâm. Sắc đẹp, tiếng hay... đâu có thần thông trói buộc được ta, chỉ vì ta còn mến sắc đẹp, thích tiếng hay, ưa vị ngon... chạy đuổi theo chúng nên bị chúng trói buộc. Nếu lòng ta băng giá thì sáu trần sẽ bất lực không còn khả năng lôi kéo. Thật sự chúng ta không cần tìm giải thoát ở đâu xa, ngay nơi đây, chính tâm mình đủ khả năng làm chủ trọn vẹn là chân thật giải thoát.

 

   V- PHẬT HÓA HỮU DUYÊN NHƠN.

    Đạo Phật chỉ giáo hóa người có duyên”, thái độ này mới nhìn qua dường như tiêu cực. Hơn nữa, chùa chiền ngày xưa hầu hết xây cất nơi núi non xa vắng, ít khi có chùa nằm nơi phồn hoa phố thị. Sự truyền bá Đạo Phật có vẻ thầm lặng, không tuyên truyền ồn náo, vàng tăng vẻ tiêu cực hơn. Song thái độ này rất thích hợp tinh thần của đạo Phật, người Đông phương thuộc lòng câu “Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất đương phong lập”. Quả thật chúng ta có của quý, dù cố giấu kín thiên hạ vẫn biết, lựa là phải đi khoe. Đức Phật biết rõ căn cơ chúng sanh rất đa dạng, không thể nào buộc họ có cái nhìn, cái hiểu như nhau, nên để họ tự ý lựa chọn cái gì họ thích. Vì vậy, đạo Phật không thích khoa trương ồn ào, chỉ sống trong cảnh yên tỉnh trầm lặng, ai thích thì tìm đến. Khi người ta tìm đến với mình thì phải tận tình chỉ dạy cho họ thâm nhập đạo lý, đây là thái độ của tăng sĩ Phật giáo. Nếu người truyền giáo tin rằng “Giáo lý đạo mình là siêu xuất tuyệt hảo”, khởi lòng vị tha muốn mọi người trên thế gian đều theo đạo mình, liền dùng mọi phương tiện giải thích, kêu gọi, dụ dỗ, rúng ép và vẫn có những người không chịu theo. Họ đâm ra bực bội, có khi dám sử dụng đến hành động tàn ác phi đạo lý, đó là “bệnh chấp thiện” mà ra. Đạo Phật truyền bá chánh pháp bằng cách thuyết giảng tại chùa, ai thích nghe thì đến, không thích thì thôi. Đến với đạo Phật bằng tinh thần tự giác, tự nguyện, một khi người ta nhận được chánh pháp là của quý thì xa xôi mấy thì họ cũng tìm đến. Trái lại, điều gì người ta không thích mà ta cứ mời rủ mãi, họ càng sanh bực bội, chống đối chẳng có lợi ích gì. Như cùng ngồi chung một bàn ăn, có những món rất thích khẩu ta, mà người khác không thích, ta cứ này ép mãi họ sẽ sanh bực bội, vì khẩu vị mỗi người có khác. Tôn giáo trên thế gian cũng như thế, tùy căn cơ trình độ của mỗi người để cho họ được tự do lựa chọn. Bản chất tôn giáo là đem an vui hạnh phúc cho nhân loại nhưng ngày nay chúng ta đã được nghe, được chứng kiến nhân danh tôn giáo gây ra cảnh đau thương, tang tóc cho con người. Chính là vì nhiệt tình, vì lợi tha mà mắc phải lỗi lầm như thế. Do đây, chúng ta càng thấm thiết câu “Phật hóa hữu duyên nhơn” và càng thấu hiểu được thái độ dường như tiêu cực của đạo Phật.

 

    KẾT THÚC.

    Qua những dữ kiện trên, tôi thấy đạo Phật rất thích hợp với tâm tư nguyện vọng của tôi. Càng tiến sâu vào đạo Phật, tôi càng thấy còn nhiều dữ kiện thích thú hơn, khiến tôi hăng hái phấn khởi trên đường tu. Tôi tự nghĩ đây là phúc lành nhiều đời của mình nên chọn được một đạo vừa chân thật, sáng suốt, tình thương, tự do và bao dung thế này. Sống trong thế kỷ 20 nhiều tôn giáo bị xao động vì câu nói “Khoa học tiến thì tôn giáo thối”. Song khảo sát chính chắn trong đạo Phật, tôi thấy ngược lại và có thể nói “Khoa học tiến càng làm sáng tỏ đạo Phật”. Thật vinh hạnh cho tôi chọn được một đạo không bị ánh sáng khoa học làm lu mờ, mà có thể cùng sánh vai với khoa học đem lại hạnh phúc thật sự lâu dài cho nhân loại.

 

Trích “ BA VẤN ĐỀ TRỌNG ĐẠI TRONG ĐỜI TU CỦA TÔI

                                                                   HT Thích Thanh Từ


   Ý NGHĨA CỦA NGƯỜI HÀNH TRÌ NIỆM PHẬT A DI ĐÀ

      NIỆM PHẬT là một pháp môn tu đơn giản, phổ thông, thực hành rất dễ, không đòi hỏi hành giả phải có công phu, công trình như pháp môn Thiền, cũng không phải hộ, trì, đọc, tụng, như các bộ kinh lớn như kinh Pháp Hoa, Đại Bửu Tích, Đại Bát Niết Bàn ...v.v... Chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, đều có thể niệm Phật một cách bình an thoải mái, mà không cần phải oai nghi đạo tràng như các pháp môn khác. Niệm Phật dễ dàng nhưng lại đạt hiệu quả cao.

    LỢI ÍCH CỦA SỰ NIỆM PHẬT :

  1. Trong 49 nguyện của Đức A Di Đà, Ngài có nguyện nếu trước phút lâm chung, mà niệm được 10 tiếng NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, thì người đó sẽ vãng sanh miền Tây Phương Cực Lạc. Nơi đó sẽ không già, không chết hưởng phúc đời đời ...

  2. Niệm PHẬT luôn luôn được sự gia hộ của Chư Phật, nếu không vãng sanh thì kiếp sau cũng được sanh vào một quốc độ an ổn thanh bình, không có giặc giã, chiến tranh .

  3. Trí tuệ Phật là một trí tuệ tuyệt vời, người nào niệm Phật thường xuyên sẽ có trí tuệ uyên bác, đó là nền tảng của mọi sự thành đạt trên đời .

  4. Oai lực của Phật không ai sánh bằng, vì thế mà niệm Phật sẽ vượt qua những nghiệp chướng, nhất là tật bệnh tiêu trừ. Chúng tôi được biết nhiều người bệnh nan y, nhờ chú tâm niệm Phật đã gặp Thầy, gặp thuốc mà qua cơn bệnh ngặt nghèo, hoặc nhờ niệm Phật mà tiêu tan nghiệp chuớng

  5. Niệm Phật khử trược lưu thanh, tạo thế cân bằng âm dương, vì thế mà cơ thể luôn luôn khoẻ mạnh, ít bệnh hoạn, ít tai nạn.

  6. Niệm Phật tạo nên hào quang chung quanh mình, đó là thứ ánh sáng rực rỡ chói lòa màu vàng bao bọc thể vía. Các chư  Phật, chư Bồ Tát, từ trên không trung này nhìn thế giới ta bà nhuộm toàn một màu tối đen như mực, chỉ những người niệm Phật mới có thứ ánh sáng này, vì vậy mà khi đi tàu xe, máy bay..., quý vị nên niệm Phật để được sự gia hộ của Đấng Bề Trên, tránh được tai nạn thảm khốc vẫn thường xảy ra .

  7. Niệm Phật tâm hiền như Phật. Trên cõi đời này:" nhất thiết duy tâm tạo " (mọi việc đều do tâm mà ra). Vì vậy mà tâm lành sẽ hành động lành, hành động lành thỉ đem lợi ích cho chúng sanh, hoà hợp tăng chúng, ích nước, lợi nhà... tạo nên một thiên đường hạ giới... hay là Niết Bàn tại thế gian .

  8. Hành giả nào thường xuyên niệm Phật... giống như một cái máy tự động, sẽ chuyển tâm tánh mình, từ từ mình nhận ra những sai trái của chính mình, và tam độc tham, sân, si, lần lần tiêu mất... mà tham, sân, si mất thì con người sẽ siêu thoát vào nước của Đức Phật A Di Đà.

  9. Niệm Phật sẽ khiến cho con người tiêu tan phiền não, khổ đau chất chứa nhiều đời, nhiều kiếp, làm cho người ta an vui, bình thản, biết chấp nhận, chịu đựng và an phận, nhưng không tiêu cực .

  10. Niệm Phật sẽ làm cho người ta lúc nào cũng vui vẻ, gương mặt sẽ trở nên hảo tướng, tự nhiên đẹp ra, sáng ra, thông minh, ứng xử mau lẹ trong mọi tình huống... đầy đủ phước báu.

         Kính thưa quý vị, trăm nghe không bằng mắt thấy, cũng như quý vị không niệm Phật thì làm sao cảm thụ được những điều lợi ích như trên. Quý vị phải thực hành, phải chăm chỉ dành thì giờ ít nhiều trong ngày, trong đời để niệm Phật... Rồi quý vị sẽ thấy sự nhiệm mầu không tả được, sự mầu nhiệm không thể nghỉ bàn...

 




 

 





 





 

 



    TƯỚNG MẠO THEO NHÀ PHẬT

   Sinh ra giữa đời ai cũng muốn mình được xinh đẹp. Giá trị của sắc đẹp lớn lao đến nỗi người ta thường tổ chức các cuộc thi hoa hậu để tìm ra những người đẹp nhất. Người đoạt giải, ngoài món tiền thưởng hậu hỉ, còn được săn đón bởi các hãng phim, các hãng thời trang lớn.

   Hầu hết các diễn viên thủ vai chính đều phải có diện mạo nổi bật để thu hút cảm tình của khán giả.

   Trong giao tiếp xử thế, người có gương mặt khả ái dễ dàng thành công hơn.

   Sắc đẹp như là một cái phước dành sẵn để người đó đi đến đời sống sung sướng khi cơ hội mở ra. Ngược lại, người có diện mạo xấu xí thật là một bất hạnh trong đời, ít được cảm tình của mọi người và do đó dễ bị thất bại. Sự xấu xí làm cho con người đau khổ, và thẩm mỹ viện đã giàu to nhờ giúp cho người xấu trở nên dễ coi hơn.

   Có nhiều nghiệp nhân khác nhau để tạo thành một quả báo diện mạo đẹp đẽ.

   Khi hoàng hậu Mallika hỏi Đức Phật về nguyên nhân đẹp xấu, Đức Phật trả lời rằng người có tâm nhu hòa, nhẫn nhục sẽ được đẹp đẽ và kẻ có tâm sân hận sẽ chịu xấu xí.

   Đức Phật cho rằng nét đẹp được tạo nên từ một tâm lý đạo đức có giá trị hơn những loại khác. Người ta có thể gây nhiều nghiệp nhân khác để tạo ra quả báo xinh đẹp, nhưng nét đẹp tạo nên từ một đức tính tốt vẫn là nét đẹp chân thật. Trong lịch sử nhân loại không hiếm gì những người đàn bà đẹp với nhiều thủ đoạn độc ác để chiếm đoạt quyền hành và gây sóng gió khắp nơi. Cái phước xinh đẹp của họ được gây tạo từ một nhân nào đó không phải là đạo đức chân thật. Từ nơi cái phước xinh đẹp này, họ đạt được vinh quang và gieo rắc đau khổ cho người khác.

   Đức Phật không khuyến khích người ta tìm sắc đẹp bằng những nghiệp nhân tạm bợ khác, Ngài nhấn mạnh đạo đức bên trong làm căn bản cho sắc đẹp bên ngoài. Đó mới là một sắc đẹp nhân hậu và bền vững.

   Thật vậy, mỗi khi nổi giận, chúng ta đã tự tạo cho mình một gương mặt nhăn nhó khó coi với mắt trợn, mày nhăn, miệng quặm, răng nhe... nhiều lần tự tạo nét mặt như thế, kiếp sau nét mặt khó coi đó sẽ trở thành cố định lâu dài. Với người hiền lành từ ái, vẻ mặt hiện ra là đôi mắt ân cần, miệng cười vui vẻ, gương mặt bình thản, nhẹ nhàng. Lâu dần, nét mặt dễ coi đó sẽ trở thành cố định ở kiếp sau. Trong cuộc đời chúng ta vẫn gặp nhiều người đẹp đẽ, nhưng có những tính chất khác nhau. Có nét đẹp gây nên sự quý mến kính trọng, trong sáng; có nét đẹp gây nên sự ham muốn, chiếm đoạt thấp hèn. Có nét đẹp bày tỏ sự cao thượng, từ tốn. Có nét đẹp lộ ra sự kiêu hãnh, tự phụ. Có nét đẹp kín đáo. Có nét đẹp lẳng lơ... Sở dĩ có sự sai khác giữa các nét đẹp bởi vì mỗi người đã gieo những nghiệp nhân khác nhau.

   Nếu người tạo nên nét đẹp từ nơi tâm lý đạo đức thuần thục, nét đẹp này sẽ toát ra vẻ thánh thiện, hiền lành, khả kính.

   Nếu người thường hay mang hoa trang trí đền thờ các bậc Thánh, họ sẽ được cả hai quả báo. Một là sắc đẹp như ngàn đóa hoa kết tụ, hai là sẽ được các công hạnh như các bậc Thánh. Mỗi tôn giáo đều có thờ các vị Thánh đặc trưng riêng. Người tín đồ cúng dường hoa cho vị Thánh nào sẽ trở nên giống hao hao phong cách của vị Thánh đó. Hoặc một người không theo tín ngưỡng, chỉ đem hoa trang trí tại tượng của các vĩ nhân thế giới, cũng sẽ gặt hái được kết quả tương tự. Tâm sùng kính một Thánh nhân hoặc vĩ nhân sẽ gây thành quả báo giống hao hao phong cách của vị đó.

   Nếu người ít có chê bai kẻ khác, thường hay khen ngợi điều tốt lành của mọi người, cũng sẽ thành tựu được quả báo có hình dáng đẹp đẽ. Họ ít chê bai ai nên không bị xấu xí để bị chê bai trở lại. Họ hay khen ngợi nên được vẻ đẹp để được khen ngợi trở lại.

   Nếu người hay dùng tài năng để tô vẽ tranh tượng của các vị Thánh, làm tôn thêm vẻ khả kính của các Ngài, quả báo đẹp đẽ là điều hiển nhiên. Còn những họa sĩ hay vẽ tranh biếm họa, chuyển gương mặt của các nhân vật nổi tiếng sang dạng méo mó, kỳ cục, hài hước sẽ phải chịu quả báo có gương mặt rùng rợn, quái đản ở kiếp sau.

   Có người, để cầu phước, đã đem tiền cất chùa, xây nhà thờ, tạo cảnh, đắp tượng, trang trí điện đài... Họ rất tốt với ngôi chùa, với nhà thờ, với tượng Phật, tượng Chúa nhưng không tốt với mọi người chung quanh. Quả báo trở lại là họ được diện mạo đẹp đẽ nhưng để lộ ra vài nét vị kỷ hẹp hòi mà một người tinh ý sẽ nhìn thấy.

   Đúng là nếu biết gieo nhân, một người vẫn có thể tạo cho mình một quả báo có diện mạo đẹp đẽ về sau, nhưng nét đẹp đó không liên quan tới đạo đức. Mặc dù đẹp nhưng họ vẫn có thể là người ác. Theo nhận xét của tâm lý học, một người càng chú trọng tới việc trang điểm cá nhân nhiều chừng nào, tâm địa càng hẹp hòi chừng nấy. Người đứng đắn là người chỉnh tề, vừa phải, không dơ bẩn, cũng không se xua, chưng diện quá đáng. Một người có đôi mắt lẳng lơ cũng là người có tính tình độc ác, hung dữ. Thói lẳng lơ hoa nguyệt với tính hung dữ thường đi đôi với nhau.

   Trong cuộc đời thỉnh thoảng chúng ta gặp một vài người đẹp mà không có duyên, hoặc có duyên mà không đẹp.

   Thường là người đẹp nhanh chóng thu hút kẻ khác ngay buổi đầu, nhưng không giữ được tình cảm lâu bền vì không có duyên. Từ “có duyên” của Việt Nam thật là đặc biệt. Nó nói lên cái gì ẩn dấu kín đáo đằng sau mà làm người khác phải xiêu lòng. Người có duyên mới là người giữ được tình cảm tốt của người khác một cách bền bỉ.

   Những người “có duyên” chinh phục được tình cảm kẻ khác lâu bền chỉ bởi vì họ đã từng kiên trì làm các công đức từ đời trước. Hoặc họ đã từng kiên trì giữ giới hạnh, sắt son chung thủy với bạn đời, tín nghĩa với bạn bè, hiếu để với cha mẹ, trung hậu với chủ nhân, cúng dường bố thí không ngừng nghỉ... Chính những phước nghiệp được theo đuổi kiên trì đã tạo cho họ một cái “có duyên” ở đời sau để cho mọi người quý mến họ mãi mãi.

   Còn những người có tính hay thay đổi, phát tâm làm phước rồi bỏ dở, hoặc ít giữ chung thủy, hiếu để, tín nghĩa, trung thành với mọi người sẽ cảm quả báo vô duyên ở đời sau. Dù có đẹp họ cũng chỉ chiếm được cảm tình của người trong chốc lát.

   Để nhìn thấy cái “có duyên” của một người chúng ta phải có trực giác tế nhị vì cái “có duyên” không lộ ra ngoài như nét đẹp. Nó thường ẩn dấu trong ánh mắt và sắc da.

   Các nhà xem tướng số đã căn cứ vào hình tướng và sắc khí để đánh giá cuộc đời của một người. Họ có thể biết người đó thọ hay yểu, giàu hay nghèo, trí tuệ hay đần độn... Đối với những nhà tướng số giỏi, họ có thể đọc được 60% cuộc đời của con người hiện ra trên hình thể.

   Như vậy, có sự tương quan giữa nghiệp báo và tướng mạo. Nghiệp đã in dấu vết lên hình dáng con người!

   Ví dụ một người trong quá khứ đã từng nóng nẩy, hung dữ làm hại kẻ khác. Qua đời này người đó sẽ phải chịu một tai nạn thảm khốc. Nghiệp đã quy định như vậy.

   Song song với sự an bài của nghiệp, trên gương mặt họ, dấu vết của sự hung dữ còn in trên đôi mắt. Các nhà tướng số nhìn thấy “hung quang” lộ trên đôi mắt và kết luận rằng kẻ này phải chịu một tai nạn nặng nề. Và đúng như thế tai nạn đã xảy ra.

   Ví dụ, một người trong quá khứ từng giúp đỡ mọi người, làm cho mọi người được vui vẻ, bình yên, vững tâm. Qua kiếp này người đó cũng trở thành một kẻ giàu có sung sướng. Bên cạnh sự an bài của nghiệp, gương mặt họ còn hiện ra vẻ độ lượng, vui tươi, vững tâm, bình tĩnh trên ánh mắt, miệng cười, dáng điệu khoan thai, sắc da tươi nhuận. Nhà tướng số nhìn thấy biểu hiện đó và nhận định rằng kẻ này sẽ trở nên giàu có. Sự thật đã đến đúng như dự đoán.

   Các nhà tướng số còn đọc được rất nhiều dấu hiệu tinh tế khác để nhận định về con người, ví dụ như đôi tai to là dấu hiệu thọ, tai dày là sung mãn tài vật, răng trong đẹp là phú quý, hàm tròn đầy là phước về hậu, hàm tóp nhỏ là yểu hay cơ cực lúc già, lông mày gần mắt là người hẹp hòi, trán rộng là vinh hiển sớm, mũi to đầy kín là tạo được sự nghiệp lớn...

   Thật ra không phải là nhà tướng số mới có thể hiểu được các dấu hiệu của diện mạo con người. Ai có trực giác đều có thể hiểu được mỗi dấu hiệu đó muốn nói lên điều gì. Một người trước kia chưa có trực giác, nhìn đôi mắt của mọi người không thấy ý nghĩa gì. Sau một thời gian tu tập thiền định, trực giác phát triển, người này chợt hiểu được mỗi một ánh mắt, một nét mặt, một nụ cười đều là biểu hiện của nghiệp báo. Các dấu hiệu đó là mật mã của nghiệp đời trước ghi lại cho đời này, ai khéo đọc được sẽ hiểu rất nhiều về con người.


   Vì tướng mạo là biểu hiện của nghiệp nên nó cũng bị thay đổi theo nghiệp.

   Một tay bán dầu tên Bùi Độ (đời vua Hán Cảnh Đế) nghèo khổ lang thang, được thầy tướng số cho biết sẽ chết đói vì có hai đường chỉ chạy xéo từ cằm lên mép miệng. Ngày kia,  Bùi Độ gặp một thiếu nữ ngồi khóc bên giếng sâu. Hỏi ra sự tình mới biết thiếu nữ mang vàng đi để chuộc tội oan của cha, chẳng may bị đánh rơi xuống giếng. Ai cũng nói dưới giếng có con trăn to. Thiếu nữ đang tuyệt vọng muốn quyên sinh.

   Bùi Độ thương tình, nghĩ mình trước sau cũng chết đói nên liều mạng leo xuống tìm được vàng cho thiếu nữ. Nhờ đó gia đình thiếu nữ được phục hồi danh dự và quyền thế.

   Một lần gặp lại, nhà tướng số kinh ngạc nói rằng tướng chết đói của Bùi Độ đã biến mất mà thay vào đó là tướng công khanh phú quý rực rỡ.

   Đúng vậy, sau này thiếu nữ tên Ngọc Hà đền ơn, đem Bùi Độ về dạy học và giao ước vợ chồng rồi mới thưa với phụ thân. Cha nàng gửi gắm Bùi Độ sang một người bạn khác để nhờ tiến cử. Thời gian xa cách Ngọc Hà, Bùi Độ đã lạc lòng với những hình bóng giai nhân khác.

   Trên bước đường tiến quan, Bùi Độ ghé vào thăm nhà tướng số cũ để tạ ơn, nhưng ông bảo Bùi Độ đã hiện lại tướng chết đói. Bùi Độ tức giận bỏ đi.

   Sau khi được làm quan, Bùi Độ đánh mất nhân cách, chỉ lục lạo, cưỡng bức các cô gái đẹp, bị triều đình hạ lệnh bắt về kinh trị tội. Bùi Độ sợ hãi trốn vào rừng rồi chết đói cạnh một mỏm đá. Ngọc Hà đau khổ tìm chồng, trông thấy bộ xương và cũng gục chết bên cạnh.

    Cái phước của Bùi Độ xuất hiện do tâm niệm liều mạng tìm vàng cứu cô gái. Phước đó quá lớn đến nổi chuyển hẳn tướng mạo và số mệnh để cho Bùi Độ trở thành quan chức vinh hiển. Nhưng rồi, tư cách tầm thường tham dục đã phá vỡ phước cũ để cho nghiệp chết đói đủ cơ duyên xuất hiện trở lại.

   Như vậy, tướng mạo tùy thuộc vào nghiệp chứ không cố định. Nếu chúng ta thường xuyên biết “liều mạng” cứu giúp mọi người, ắt hẳn tướng mạo và số kiếp chúng ta sẽ thay đổi một cách tốt đẹp lắm!!!


   Sưu tầm

  ( các bà mẹ khi mang thai, nếu chịu khó mỗi ngày ngồi niệm Phật, sinh con ra sẽ đẹp, đẹp theo nghĩa là cái thần rất sáng ).

 



  


   TÂM TỊNH THÌ CÕI TỊNH

   Có một vị nam cư sĩ mỗi ngày thường hái hoa tươi trong vườn nhà mình đem đến chùa chí thành dâng cúng Phật. Một hôm, khi đem hoa đến điện Phật, chợt gặp Thiền Sư Vô Đức từ pháp đường đi ra. Thiền sư hoan hỷ nói:

   - Lành thay! Lành thay! Mỗi ngày anh đều đem hương hoa chí thành dâng cúng Phật, theo kinh nói, thường dùng hương hoa cúng dường, đời sau sẽ được phước báo thân tướng trang nghiêm!

   Cư sĩ nghe nói, vui vẻ đáp:

   - Đó là bổn phận con phải làm! Mỗi ngày khi đến chùa lễ Phật thì tâm con mát mẻ, giống như được tẩy rửa nhưng khi về đến nhà thì lại phiền muộn. Bà nội trợ thường phiền hà ồn náo như cái chợ, con làm sao giữ gìn tâm mình cho thanh tịnh thuần khiết?

    Thiền Sư Vô Đức hỏi:

   - Ông thường dùng hoa tươi cúng Phật, hẳn có ít nhiều kiến thức về cắm hoa, bây giờ tôi hỏi ông, làm cách nào để giữ cho hoa được tươi lâu, tốt đẹp?

    Cư sĩ đáp:

   - Muốn giữ gìn hoa được tươi lâu, mỗi ngày phải thay nước, và khi thay nước nên cắt bỏ một phần dưới cành hoa đi, vì phần cành nằm trong nước dễ bị thối rữa. Khi cành thối rữa thì khó hấp thu nước, làm cho hoa mau héo tàn.

    Thiền sư Vô Đức nói:

   - Giữ gìn cái tâm thanh tịnh thuần khiết cũng giống như thế. Hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta giống như nước trong bình, còn chúng ta là hoa. Chỉ có thường xuyên lọc sạch thân tâm, sửa đổi tính tình và luôn luôn sám hối, sửa đổi khuyết điểm mới có thể tạo nên sự tươi mát, an nhiên.

    Nghe xong, cư sĩ hoan hỷ làm lễ cảm tạ:

   - Cám ơn thiền sư khai thị cho con! Hy vọng sau này có cơ hội, con sẽ thân cận thiền sư, ở trong tự viện làm thiền giả, an hưởng chuông sớm mõ chiều, yên tâm tĩnh trí trong tiếng kệ lời kinh.

    Thiền sư Vô Đức nói:

   - Đâu cần đợi cơ hội đến ở trong tự viện, ông hít vô thở ra đó là kinh kệ, mạch đập đó là chuông mõ, thân thể là chùa chiền, hai tai là tỉnh giác thì ở đâu cũng yên tĩnh.

    (Theo Tinh Vân thiền thoại)


   Bài học đạo lý:

    Nước trong bình tự nó không thể trở nên hôi thối nếu không cắm hoa vào. Hoàn cảnh sống của chúng ta cũng như thế, sẽ không rắc rối, phiền phức… nếu chẳng có những tâm niệm xấu ác hiện hành. Kinh Phật nóiTâm tịnh thì cõi tịnh”. Một khi tâm thanh tịnh thì ở đâu cũng là đạo tràng, trở thành Tịnh Độ. Vì vậy, mấu chốt của việc tu tập là luôn tịnh hóa thân tâm của mình.

    Nhiều người nghĩ rằng, cuộc đời vốn đầy dẫy những nhiễm ô, tệ nạn, cám dỗ nên khó giữ tâm trong sạch. Họ ước muốn có một hoàn cảnh sống tốt hơn để có thể tu tập, và hẹn một ngày nào đó có cơ hội sẽ vô chùa tu chẳng hạn. Nhưng họ đâu biết rằng, nếu đem tâm niệm bất thiện vào chùa thì cũng khó giữ được thanh tịnh chốn thiền môn!

    Kinh Bát Đại Nhân Giác nói: “Tuy vi tục nhân, bất nhiễm thế lạc”. Đó là nhân cách của người học Phật. Vẫn sống giữa cuộc đời, phải đối mặt với cơm ăn áo mặc, bon chen danh lợi, nói chung bị vây quanh bởi tiền tài, danh vọng, sắc dục… mà người con Phật vẫn nỗ lực để luôn giữ mình trong sạch, không bị thói đời chi phối, vẩn đục. Để làm được điều này, trước hết bản thân mỗi chúng ta phải “tự tịnh kỳ ý”, tức làm sạch tâm ý của mình. Một khi tâm ý đã thanh tịnh thì mình có thể “Nhẫn nhịn đời nhưng không để cho quyền lực đen tối của đời sai sử. Tùy thuận thế gian nhưng không bị nhấn chìm trong dòng xoáy dơ bẩn của thế gian”.

    Kinh Duy Ma nói: “Chúng sinh là tịnh độ của Bồ Tát”. Chúng ta chưa phải là Bồ Tát nhưng nếu có thể giữ “tâm bình khí hòa”, biết lắng nghe và chia sẻ trong tinh thần hiểu biết, thương yêu, thì mỗi gia đình của chúng ta cũng sẽ biến thành một tịnh độ nho nhỏ!

 

 





 

 




  



   NGƯỜI NGÀY XƯA

    Sinh là một anh học trò nghèo kiết xác tha phương cầu học. Anh ở trọ trong một ngôi chùa, ngày đêm dùi mài kinh sử để ứng thí. Quan huyện sở tại cũng là người xứ khác bổ nhiệm đến, thường lui tới chùa vì quan rất mộ đạo. Quan có một cô con gái tuổi độ trăng tròn, nhan sắc mỹ miều diễm lệ. Một hôm nhân ngày lễ Vu Lan, cô gái theo cha đến chùa. Vừa trông thấy người ngọc, Sinh ôm lòng thầm yêu trộm nhớ. Nhưng chàng đã có vợ con ở quê nhà, lại thuộc gia đình nghèo khó, mà nàng thì đang độ xuân xanh, lá ngọc cành vàng. Chuyện lương duyên thật khó nỗi ước mơ. Mối tình bị chướng duyên ngăn trở càng thêm nồng nàn thắm thiết, mặc dù chưa một lời trao đổi, tình yêu chỉ đơn phương. Chàng đành nuốt nước bọt ngâm câu “tình tuyệt vọng”:


Lòng ta chôn một khối tình

Tình trong giây phút mà thành thiên thu.


   Nàng thoáng hiện tới chùa một lần rồi không bao giờ trở lại. Con “người gieo thảm” đó để lại trong lòng Sinh một mối tương tư cay đắng, vì không thể nào trăm năm tính cuộc vuông tròn. Hình ảnh nàng đang ám ảnh Sinh một cách mãnh liệt, thì bỗng một hôm, chàng nghe tin nàng đã chết. Ôi! Rõ thật là: “Ngày xuân xanh sơ ngộ để thiên thu.”

   Mới thấy nàng có một lần, nhưng Sinh lăn khóc thảm thiết khi hay tin nàng lìa trần. May thay, tục lệ lúc bấy giờ ưa chôn người chết ở nguyên quán, nên quan huyện ướp xác quàng thây nàng tại ngôi chùa Sinh trú ngụ, chờ ba năm sau sẽ đưa về cố quận. Từ đó Sinh được đêm ngày gần gũi người đẹp… trong quan tài. Mối tình si vẫn nồng đượm, có lẽ còn mặn mà hơn xưa, bởi lẽ giờ đây không còn gì ngăn cách. Cái chết xóa tan mọi bất bình đẳng giữa con người, phá đổ mọi ranh giới tài sản, địa vị, giai cấp… Mỗi bữa ăn, Sinh đặt một mâm cơm trên nắp quan tài cúng cho vong linh hưởng xong, chàng mới chịu hạ xuống ăn. Chàng kể lể với người trong quan tài như sau:

   “Ối nàng ơi! Âm dương đôi ngã, nàng có thấu cho lòng tôi không? Khi nàng còn sống, nàng là lá ngọc cành vàng, tôi chỉ là một kẻ thư sinh bần hàn ăn nhờ ở đậu, có khi nào đài gương soi đến đậu bèo! Nhưng tôi yêu nàng tha thiết, tình riêng luống ra ngẩn vào ngơ. Hình bóng nàng đậm nét trong tim tôi. Bây giờ, nàng nằm đó, tôi đứng đây, cách nhau có một tấm ván quan tài, chỉ trong gang tấc vậy mà thành ra biết mấy trùng quan san! Ôi! Sao con tạo khéo trêu người dường bấy! Khi tôi được hân hạnh gần gũi nàng, thì nàng đã hóa ra người thiên cổ, thành cái xác không hồn! Ước sao nàng hãy sống lại, tôi xin đổi bất cứ gì để đôi ta được tái ngộ trên dương trần! Xin nàng chứng giám cho lòng tôi.”

   Bữa ăn nào cũng vậy, việc cúng cơm và đọc văn tệ than khóc người đẹp trở thành một tục lệ bất biến trong đời chàng thư sinh. “Hữu cầu tất ứng”, lời cầu nguyện của chàng chẳng bao lâu cảm ứng được vong hồn người chết. Một đêm nàng hiện về thỏ thẻ:

   “Cảm tấm tình si của chàng, em đã xin với Diêm Vương cho em được tái sinh vào ngôi nhà số 555, đường Nguyễn Văn Trỗi, thành phố Hồ Chí Minh. Mười lăm năm sau đúng vào ngày rằm tháng bảy, chàng hãy đến tìm em ở đó, chúng ta sẽ gặp gỡ để vầy mối lương duyên. Nhưng chàng ôi, Diêm Vương có ra một điều kiện. Muốn tái sinh, em phải nhờ người thân chí thành tụng một Tạng Kinh Kim Cương thì mới được như ý. Vậy, nếu chàng có lòng, xin chàng hãy tụng kinh cho em.”

   Sinh tỉnh dậy mừng rỡ, ghi rõ ngày tháng nàng đã hẹn lên vách, ghi luôn cả địa chỉ mới của cô gái. Từ đó chàng xếp bút nghiên, chuyên chú tụng Kim cương đến sáu ngàn lần như nàng dặn, phải hết mất ba năm. Năm đó chàng đã bốn mươi lăm tuổi. Còn những mười hai năm nữa mới gặp lại người đẹp ngày xưa! Sinh vẫn ôm lòng chờ đợi, hình ảnh yêu kiều của nàng mỗi ngày một đậm nét trong trí tưởng.

   Về phần cô gái, quả nhiên thần thức cô đã thác sinh vào một gia đình thường dân ở địa chỉ trên, để đáp lại tấm tình si của anh học trò. Cô mang hình đáng một cô gái nhu mì dễ yêu, nhưng không có gì gọi là cá lặn chim sa cho lắm. Mối tình đeo đẳng từ lúc còn nằm trong quan tài, khiến tiềm thức cô vẫn một mực đợi chờ anh chàng thư sinh mặt trắng. Với tình yêu mới nở, cô tưởng tượng hình dung của anh chàng ít ra cũng bằng chàng Kim:


“Phong tư tài mạo tuyệt vời.

                      Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.”


   Ngày tháng thoi đưa, sắp đến ngày hẹn. Chàng thư sinh bây giờ tuổi đã xấp xỉ lục tuần, râu tóc hoa râm, sắm mặt phong trần vì nỗi đời mưa nắng. Nhưng mối tình thì vẫn tươi trẻ như thuở ban đầu, vì nó vô hình vô tướng nên không có già bệnh như cái thể xác của anh. Tình yêu đã không đổi, nên hình ảnh nàng trong tim anh không chút đổi thay, đó là nét đẹp đắm nguyệt say hoa của một lần sơ ngộ. Anh yêu, là yêu cái hình bóng của nàng thì đúng hơn. Vì nếu nàng còn sống thì chắc chắn bây giờ nàng cũng không còn như hình bóng anh tôn thờ.

   Cái ngày hẹn hò đã đến. Anh chàng thắng bộ y phục mới tinh, chải lại mái tóc nửa đen nửa bạc không biết bao nhiêu lần, cố che dấu càng nhiều tóc bạc càng hay. Anh cũng không quên bôi dầu láng mượt như thời trang dạo đó. Nhưng làm gì thì làm, không thể hóa trang cái già thành trẻ. Không thể nào xóa hết những vết hận năm tháng khắc sâu trên vừng trán nhăn nheo.

“Phong trần đến cả sơn khê

                  Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.”

   Huống chi là con người, dù nó có nỗ lực bao nhiêu để xóa bỏ vết tích thời gian trên thân thể. Nhưng tâm hồn của chàng, mối tình si của chàng vẫn không chịu già theo tuổi tác, mà nó vẫn là mối tình đầu của tuổi đôi mươi, của cái lần sơ ngộ. Cho nên anh chàng hăng hái, hăm hở thuê xe tắc xi đến địa chỉ nàng hẹn để gặp lại tình xưa. Phần nàng cũng vậy, con tim rộn rã với tình yêu, với mộng đẹp và với hình ảnh chàng thư sinh khả ái. Chắc hẳn mặt chàng phải đẹp như mối tình của chàng! Chắc hẳn chàng phải tươi trẻ như hoa xuân phong nhụy! Ôi, cảm động làm sao sẽ là cái phút giây gặp gỡ! Ngàn năm hồ dễ đã ai quên.

   …Mỗi người sống trong tâm tưởng hình ảnh tuyệt vời của người kia, và của mối tình, tưởng tượng đến cái lúc gặp gỡ mà suýt chết ngất người vì sung sướng. Chiếc xe tắc xi đã dừng lại trước một ngôi nhà chúng cư dơ dáy. Nàng con gái đã ra đứng tựa cửa trông chờ. Mà nào thấy đâu bóng hình “hoàng tử của lòng em”? Chỉ là một cụ già trông càng già hơn do bởi nỗ lực làm cho có vẻ trẻ. Cô gái buột miệng hỏi:

   - Ông kiếm ai?

   - Xin lỗi, cho tôi hỏi thăm nhà tiểu thư…

   - Ông là ai?

   - Tôi là thư sinh ở trọ chùa Bà Ðầm. Xin cô cứ thưa lại với tiểu thư như vậy.

   Cô gái òa khóc, nói trong tức tưởi:

   - Không phải, không phải! Trời ôi! Chàng đã phụ tình, đã lừa dối ta! Chàng đã si mê người khác, nên đưa ông già này đến thay! Chàng lừa dối ta! Thật chàng khinh ta quá mức!

   Nàng ôm mặt bỏ chạy một mạch vào nhà trong. Cụ thư sinh lủi thủi lê bước trên đường về. Chàng như bừng tỉnh cơn trường mộng: hình ảnh cô tiểu thư đã chết thật rồi, nhờ chàng vừa tai nghe, mắt thấy. Vâng, nhờ thấy người con gái sống, mà chàng chết được trong tim hình ảnh người con gái chết. Bấy lâu hồn ma vẫn sống mãnh liệt trong lòng chàng dưới hình ảnh một cô nương hoa nhường nguyệt thẹn. Nhưng bây giờ, sau mười lăm năm chờ đợi, chàng chỉ bắt gặp một cô gái nhan sắc tầm thường như trăm ngàn cô gái khác, nào có gì đâu?

   Chàng trở về, giở lại Kinh Kim Cương ra tụng, đến câu kết:


                                                             Hết thảy pháp hữu vi

    Như mộng huyễn ảo ảnh

    Như sương và như chớp

 Hãy quán sát như vậy.


    Chàng tỉnh ngộ, thầm nhủ:

   “Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp. Nhan sắc nàng, cái nhan sắc mà mười lăm năm nay ta từng say đắm, đã không thực, huống chi là hình ảnh, hoài niệm về nhan sắc ấy. Cái thực đã không thực, huống hồ là mộng tưởng trong tâm.”

 




     ÔNG TRƯỞNG GIẢ KÉN RỂ

Thưở xưa, có gia đình ông trưởng giả giàu có và sang trọng hơn người. Tuy giàu có sang trọng mà đối với đám dân nghèo hai ông bà chẳng hề giúp đỡ, làm ơn làm phước cho ai.

Ông bà sanh hạ được bốn người con, ba trai và một gái. Mặc dù của nhiều con có, mà hai ông bà thường lo buồn than thở vì cậu con trai đầu lớn lên thì cờ bạc rượu chè ăn chơi phung phí, hao tốn không biết bao nhiêu tiền của; còn cậu thứ hai thì thân thể vốn suy nhược, từ khi sanh ra đến lớn lên bịnh hoạn triền miên, tiền thầy, tiền thuốc tốn kém rất nhiều mà bịnh vẫn còn nguyên. Không một cậu nào biết hiếu để hoặc biết lo gia nghiệp. Duy có thằng thứ ba và cô út, tánh tình hiền từ, thảo thuận và biết lam lũ làm ăn. Hai ông bà nhờ cậy hơn hết chỉ có một mình cô gái út, nhưng khốn nỗi cô là phận gái, làm sao nối được sự nghiệp của Tổ Tiên! Vì thế mà hai ông bà mỗi đêm, không khỏi gác tay lên trán, lo rầu than thở!

Một hôm, bà bảo ông rằng:

- Nhà mình có tiếng là giàu sang chẳng kém thua ai, gia tài sự nghiệp kinh doanh to lớn, đáng lẽ là hạnh phúc lắm, nhưng sao lại vô phúc thế nầy, đã sanh đặng mấy đứa con trai mà thằng cả với thằng thứ hai không một đứa nào biết hiếu đạo, lo nối giỏi gia phong. Có cũng như không, vậy biết làm sao? Duy có thằng thứ ba và con út biết lo làm ăn thạnh lợi cho gia đình. Sách nói: "Vi phúc bất nhân". Có lẽ hai vợ chồng chúng ta cứ lo làm giàu, từ hồi nào đến giờ không biết làm những điều nhân đức, nên Trời Phật khiến cho hai con ta hung hoang phá của như thế để phạt chúng ta chăng? Bây giờ tôi nghĩ như thế nầy, may ra con ta có hồi tâm hướng thiện chăng? Chúng ta nên sắm hương hoa trà quả đến chùa cúng Phật, quy y để nương dựa theo bóng từ bi, nhờ thần lực Tam bảo gia hộ cho chút phước duyên, khiến cho con chúng ta tánh tình trở nên hiền từ biết lo hiếu dưỡng phụ mẫu, duy trì gia nghiệp đặng mong cầu hành phúc tương lai. Vậy ông nghĩ sao?

- Bà nói nghe hữu lý, vậy thì bà lo sắm sửa hương hoa trà nếp, để chúng ta cùng đi…

Sáng hôm sau hai ông bà đem lễ vật lên chùa quy y và giải bày tâm sự cho Hòa thượng nghe. Nghe xong, Hòa thượng cảm động, thương người biết ăn năn hối lỗi, nên hoan hỷ truyền trao quy giới và dùng những lời hòa nhã đạo đức khuyên nhủ ông bà, giảng nói thuyết luân hồi nhân quả. Hòa thượng lại dạy phải kính thờ Tam Bảo, y theo lời Phật dạy, giữ gìn năm giới, mỗi tháng ăn chay 4 ngày và tụng kinh niệm chú, đem của cải chuẩn bần bố thí. Làm được như thế thì hai đứa con ông bà sẽ hồi tâm hướng thiện lo phụng sự gia nghiệp.

Hai ông bà nghe lời thầy khuyên dạy như vậy, hết lòng kính phục. Sau khi trở về nhà, hai ông bà y như lời thầy dạy, siêng năng niệm Phật tu hành. Nhưng chưa đầy một tháng, thì ôi thôi, cậu cả lâm phải bịnh nặng, ông bà cầu đảo các chùa miễu, chạy đủ thuốc hay, thầy giỏi, mà bịnh tình của cậu lại càng ngày càng thêm nguy ngập! Thế rồi cậu chỉ để lại cho ông bà một sự thất vọng quá ư sầu thảm mà một mình riêng về cõi hư vô.

Sau khi mai táng cậu cả rồi, ông bà lên chùa khóc than tha thiết, kể lại tình cảnh cho thầy nghe. Thầy động lòng cảm thương, khuyên dạy rằng:

- “Con người có sanh phải có tử, đó là lẽ cố nhiên, từ vua chúa đến quan dân, không một ai tránh khỏi. Dù cho có ngọc ngà châu báu đầy kho cũng không thể đổi được cái chết, tôi tớ đầy nhà cũng không sao thay thế đặng. Cha mẹ vợ chồng con cái, dù tình thương có mặn nồng bao nhiêu rồi cũng phải phân ly. Tình chồng vợ, cha con sống trong một nhà, cũng như bầy chim chung ngủ trong một cụm rừng, hễ cơn giông tố ào đến, thì mạnh con nào nấy bay!

Cổ nhân đã dạy:

Phụ mẫu ân thâm chung hữu biệt

Phu thê nghĩa trọng giã phân ly

Nhơn tình tợ điều đồng lâm túc

Đại hạn lai thời các tự phi.

Dịch nghĩa:

Cha mẹ ơn sâu còn có biệt

Vợ chồng nghĩa nặng cũng phân ly

Nhơn tình nào khác chim chung ngủ

Sáng lại, con nào nấy bay đi.

Hòa thượng lại nói tiếp:

- “Ông bà nghĩ coi, ai lại không muốn sống, sống để hưởng cuộc phú quí vinh hoa. Kia như vua chúa là bực giàu sang phú quí nhất trên đời, họ còn muốn sống gấp trăm lần dân chúng, đặng hưởng hạnh phúc, nhưng không tránh khỏi số mạng đã định.

Sách nói:

Diêm Vương chủ định tam canh tử

Định bất lưu nhơn đáo ngũ canh

Nghĩa là:

Diêm Vương nhất định canh ba chết

Quyết chẳng để người đến canh năm.

Cuộc đời của cậu cả hưởng thọ chỉ có bấy nhiêu, bởi kiếp trước cậu không tu nhơn trường thọ. Vậy ông bà cũng nên khuây khỏa, chớ nên buồn rầu lắm mà thêm hao tổn tinh thần. Bây giờ ông bà có thương yêu sầu thảm cho mấy, cậu cũng không sống lại được, tốt hơn là ông bà lo tụng kinh cầu nguyện cho hương hồn của cậu cả, được tiêu diêu về miền Cực Lạc, thì ích lợi hơn. Từ nay ông bà nên dũng mãnh phát nguyện ăn chay mỗi tháng 6 ngày và thọ trì Kinh Phổ Môn, thì tai họa sẽ tiêu tan, gia đình yên ổn, và hương hồn cậu cả được siêu thăng.

Hai vợ chồng ông trưởng giả được nghe lời thầy khuyên dạy, nên trong lòng cũng tạm khuây. Hai ông bà từ tạ thầy về nhà tinh tấn tu hành. Chưa đầy ba tháng, thì kế tiếp người con thứ hai kỳ này chỉ lâm bịnh sơ sài, rồi cũng theo anh Cả mà thả hồn về nơi chín suối.

Ôi thôi! Lúc bấy giờ hai ông bà biết bao sầu thảm, oán Trời trách Đất, khinh miệt Thánh Thần, nghi Phật Trời không linh thiêng, bảo vì tu theo Phật mà ra nông nỗi nầy!

Sau khi tống táng người con thứ hai xong rồi, hai vợ chồng lên chùa, sắc mặt chứa chan những nét âu sầu và tức giận.

Bà nức nở khóc, nói:

- Tôi cũng tưởng quy y theo Phật để mong nhờ Phật phù hộ cho con tôi được lành mạnh, nào ngờ đâu, mới vừa quy y làm phước, mà con tôi lại chết luôn cả hai thằng! ... Vậy nay, chúng tôi xin trả phái điệp, chuông mõ và Phật tượng lại Thầy, từ đây thôi không tu nữa! ...

Thầy ôn tồn khuyên bảo:

- “Con người ta sanh ra ở đời, sự chết sống đều do số mạng. Sách nói: Nhứt ẩm, nhứt trác giai do tiền định (một hớp nước hay một miếng ăn cũng đều do tiền định) Có người được phước giàu sang mà không trường thọ. Có người được trường thọ mà không có phước giàu sang, đó là do nghiệp nhơn đời trước, chớ không phải muốn mà được đâu. Người chết yểu hay sống lâu là đều do nghiệp trước đã gây tạo cả. Như trong kinh Pháp Cú Phật có dạy rằng: "Dục tri tiền thế nhơn, kim sanh thọ giả thị, yếu tri hậu thế giả, kim sanh tác giả thị" Nghĩa là: Người muốn biết nhơn đời trước thì cứ theo quả báo đời nay mà suy nghiệm; còn muốn biết quả báo đời sau, thì nên xem chỗ tạo nhơn của mình ngày nay vậy.

Suy đó thì biết hai cậu đời trước tuy có bố thí làm phước chút ít, nên đời nay mới được đầu thai làm con ông bà để hưởng phước giàu sang; còn cậu chết yểu là do đời trước cậu không tu nhơn trường thọ. Bởi hai cậu đời trước tạo nhơn ngắn ngủi, nên nay chỉ sống được chừng ấy thôi. Vậy xin khuyên Ông Bà chớ vì chỗ thấy biết hẹp hòi của mình mà thối tâm Bồ Đề, vùi lấp giống Phật tử, oán hờn Phật Tổ, trách móc quỉ thần, gây thêm tội lỗi. Ông Bà nên nhớ rằng: “Nhứt nhựt hành thiện, thiện du bất túc; nhứt nhựt hành ác, ác tự hữu dư

Ông Bà cũng nên tinh tấn ăn chay thêm, mỗi tháng 10 ngày và nguyện thọ trì Kinh Kim-Cang đi, để cầu nguyện cho hương hồn của hai cậu được siêu thoát, và gia đình từ đây chắc được bình an, để vun trồng cội phúc về sau.”

Hai vợ chồng ông trưởng giả nhờ thầy lấy nước từ bi rưới tắt lửa sân hận, nên không oán Phật, sầu con nữa, mà lại còn thêm kính Tam Bảo, vâng lời thầy dạy. Ông bà tinh tấn tu hành, vừa đúng một năm thì ôi thôi, người con thứ ba của ông bà cũng từ biệt ông bà hồn dạo nơi âm cảnh.

Lúc bấy giờ tình thầy trò đã không còn thương mến, mà lại trở nên kẻ thù của ông bà. Ác tâm của ông bà nổi lên cực điểm, nào phái điệp, kinh sách, Phật tượng trên bàn thờ, đều bị ông tuôn xuống đất một lượt, không còn một mảy may nào kính trọng cả. Từ đây, hễ ông thấy đến ông thầy hay cô ni nào đi ngang qua ngõ, nếu ông không đánh đập thì cũng mắng chưởi tồi tàn.

Trải qua hai ba năm trời, mà ông vẫn còn ôm lòng oán Phật ghét Tăng, hủy báng người tu hành.

Các việc buồn dồn dập làm cho bà trưởng giả không ăn không ngủ, khóc luôn cả ngày đêm, nên hai con mắt sưng vù và ra máu, không bao lâu bà cũng theo 3 con trai của bà, hồn về chín suối!

Thế là ông trưởng giả chỉ còn một cô gái út tên là Lan Phương. Lan Phương tuổi vừa đôi chín, nhan sắc lộng lẫy tuyệt vời, công dung ngôn hạnh đều đặng vẹn toàn. Ông trưởng giả cưng nàng như trứng mỏng.

Nàng thôi học, từ khi anh thứ Ba nàng từ biệt cõi trần, để trở về an ủi cha già và thế cho các anh chăm nom săn sóc gia đình. Nàng là một cô gái rất hiếu hạnh, cả ngày chỉ lo việc nữ công, và chăm nom từ bữa ăn cho cha già, nên cha nàng quí nàng như ngọc.
Đã nhiều lần, Ông ngồi nghĩ đến việc gia đình và tương lai của con... Ông đầy những nỗi lo buồn, vì không có con trai để nối nghiệp, chỉ còn một đứa con út, song phận nó là gái rồi đây sẽ phải theo chồng.

Sau mấy đêm nghĩ ngợi, ông tính ra được một kế là kén chọn một chàng rể, không cần con nhà giàu có quan quyền, mà chỉ cần văn chương lỗi lạc để nối gia phong. Sau mấy lần suy tính, ông tuyên bố lên rằng: Nếu ai thi được đậu, thì sẽ được một phần thưởng vô giá là: một cô gái yêu quí của ông và một gia nghiệp triệu phú nầy. Trái lại, nếu người nào bị rớt, sẽ bị đánh 100 roi đuổi ra.

Lời tuyên bố được truyền khắp mọi nơi, từ già đến trẻ, ai nấy cũng đều biết gia tài triệu phú và cô gái nhà ông trưởng giả, nên không biết bao nhiêu văn nhơn thi sĩ tài ba lỗi lạc đều hy vọng chứa chan mong sẽ lãnh được phần thưởng quí giá của đời họ. Nhưng đã bao nhiêu người rồi, khi đến thi chẳng những thất vọng không lãnh được phần thưởng quí báu ấy, trái lại còn bị đánh 100 roi và đuổi ra khỏi cửa. Bởi cuộc khảo thí quá khó khăn và nghiêm khắc, nên trải qua trên một năm trường mà ông trưởng giả chưa kén chọn được một chú rể nào cả, gần đến khúc đường bế tắc, và thất vọng.

Bỗng một hôm có một người phong độ giống tu sĩ, điệu bộ khoan thai và nhàn nhã, mặc đồ nâu sòng, đến xin dự thí.

Người gác cổng hỏi:

- Thầy đi đâu đó?

- Tôi nghe ông trưởng giả có mở cuộc thi để chọn rể tài nên tôi xin đến dự thí.

- Bấy lâu nay biết bao bực văn nhân tài tử đến dự thi, song rốt cuộc đều bị đánh đòn và đuổi ra, huống chi ông, tôi xem bộ tịch thiệt thà như thế nầy, chắc không tránh khỏi bị đòn 100 roi, rồi bị đuổi ra đấy.

- Không, không hề chi đâu miễn anh vui lòng cho tôi vào, may ra thi được đậu, thì ơn ấy tôi chẳng dám quên.

- Thôi được, ông hãy đi theo tôi. Nói xong anh gác cửa liền dẫn chàng đi vào nhà.

Khi vào tận nơi, trưởng giả vừa thấy liền quát to bảo anh gác cửa rằng:

- Người không biết sao, đã lâu rồi, ta nghiêm cấm không cho ông thầy, cô vãi lai vãng đến đây, nay người còn dẫn vào! Đè lão ấy xuống, đánh 100 roi rồi đuổi ra lập tức cho ta!

Thí sinh ôn tồn đáp rằng:

 - Thưa Cụ, cháu không phải nhà Sư, Cụ ạ.

 - Không phải nhà Sư à? Không phải nhà Sư sao lại cạo đầu?

           - Cháu muốn cho mát mẻ giản tiện khi tắm rửa và khỏi mất thì giờ chải gở.

           - Ngươi còn giấu gì nữa chớ? Nếu không phải nhà Sư sao mặc đồ nâu sòng.

          - Thưa Cụ vì cháu ở gần chùa, nhà cháu nghèo khó, không tiền mua sắm, chỉ nhờ các Sư bố thí y phục, nên cháu mới mặc đồ như thế nầy.

- Ngươi nói ngươi nghèo khổ, nếu quả thật như thế thì ngươi làm sao biết chữ để thi?

- Thưa Cụ, khi cha mẹ cháu còn sanh tiền, có cho cháu đi học, nhưng rủi thay, cha mẹ cháu khuất núi sớm, nên cháu phải côi cút và vất vả đến thế nầy! ... Hiện nay hằng ngày cháu chỉ nhờ miếng cơm thừa của cô bác, nuôi sống qua ngày, để theo đòi việc học tập. Nay nghe Cụ mở cuộc thi chọn rể, cháu cũng xin đem chút tài mọn dự thí, mong rằng: "bỉ cực thới lai" gặp lúc "thời lai phong tống Đằng Vương các", cháu sẽ được thỏa mãn lòng hoài vọng bấy lâu.

- Thôi được, ngươi hãy ngồi đó, để ta ra đề cho thi, nếu đậu thì ta sẽ làm đúng theo lời hứa, còn không thì ngươi phải bị đánh 100 roi đuổi ra. Song lối thi nầy không phải như cách thi Hương hay thi Hội, nghĩa là không cần có bài vỡ chi cả, miễn ta chỉ đâu ngươi lập tức ứng khẩu làm thi theo đó, nếu hay và thích hợp với ý ta thì được đậu.

- Dạ vâng!

Lúc bấy giờ, ông trưởng giả ngó ra trước ngõ, thấy hai cánh cửa, một cánh mở và một cánh khép, tòng bá trang hoàng hai bên đường đi; ông liền chỉ tay vào cảnh đó và bảo chàng làm một bài thơ.

Chàng thí sinh liền ứng khẩu ngâm:

Môn tiền nhứt phiến khai

Tòng bá lưỡng biên bày

Nhược nhơn hành tà đạo

Bất năng kiến Như Lai

Dịch nghĩa:

Cửa ngoài một cánh mở

Tòng bá hai hàng dài

Nếu người theo đạo quấy

Chẳng thấy đặng Như Lai

Nghe xong, ông trưởng giả giận mừng lẫn lộn: vì đã trên một năm rồi, không biết bao nhiêu người đến thi, mà chưa có ai tài đặc biệt hay lỗi lạc như trò nầy, nhưng lòng ông đang thù oán Phật, mà ông nghe đến câu “Nhược nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai” là hai câu kệ trong Kinh Kim Cang mà ông đã thường đọc tụng hơn một năm, nên lòng thêm tức giận và quát to lên rằng:

- Người làm thơ thì hay và bặt thiệp lắm! Nhưng người không biết tại sao? Ta rất oán Phật. Vì theo đạo Phật mà ba đứa con trai ta đã chết nên ta không muốn nghe đến tên Như Lai hay Phật nữa. Lỡ lần đầu ta tha thứ, nếu sau người còn dùng đến danh từ Như Lai hay Phật thì sẽ bị đánh trăm roi đuổi ra lập tức nhé!

- Dạ vâng! Những danh từ nào Cụ cấm, cháu không dám tái phạm.

Ông trưởng giả êm dịu cơn nóng giận, lại nhìn ra trước sân thấy có một con gà trống cồ, màu lông năm sắc, đang đập cánh gáy lên. Ông ôn tồn đưa tay chỉ và bảo làm thi.

Chàng liền ứng khẩu ngâm:

Đình tiền hữu nhứt kê

Thân phi ngũ sắc ê

Ngũ canh thường báo hiệu

Tam miệu tam Bồ Đề

Dịch nghĩa:

Trước sân con gà trống

Mập mạp năm sắc lông

Năm canh thường báo hiệu

Tam miệu tam Bồ Đề

Nghe xong, ông trưởng giả quát to lên: Rằng hay thì thật là hay, nhưng ta không ưa Phật pháp, oán ghét tăng, ni, chẳng thích Bồ Tát, không chịu Bồ Đề. Sao người cứ dùng những danh từ ấy mãi? Lại nữa người nói người không phải nhà Sư, sao rất thuộc những danh từ Phật pháp?

- Thưa Cụ, vì cháu ở gần chùa thường nghe chư Tăng đọc kinh tự nhiên thấm nhiễm thôi, chớ thật không phải nhà Sư. Nếu cháu thật nhà Sư thì đâu có dự thi như thế này.

- Thôi người đừng nói chi nhiều lời hãy nằm xuống đây chịu đánh 30 roi, rồi ta sẽ cho làm bài khác.

- Thưa Cụ, xin Cụ hãy xét kỹ mà dung thứ cho cháu. Cụ chỉ cấm không cho nói tới Phật và Như Lai, thì cháu không nói đến hai danh từ đó chớ Cụ đâu có cấm dùng danh từ Bồ Tát hay Bồ Đề. Lại nữa, Cụ bảo làm thi trong tức khắc, chỉ đâu phải đọc liền đó, không cho cháu được một phút suy nghĩ, trong lúc cấp bách lựa lời chẳng kịp, vì túng vãn nên cháu nói lỡ như thế,  xin Cụ mở lượng khoan hồng mà dung thứ cho.

Ông trưởng giả nghe chàng phân trần cũng phải, nên cơn nóng giận dịu xuống, bèn tha thứ cho chàng. Lúc bấy giờ ông chỉ ngay bức tranh vẽ hình con cọp treo trên vách và bảo làm thi.

Chàng liền ứng khẩu ngâm rằng:

Bích trung hữu nhứt hổ

Thân ly tam xích thổ

Thượng báo tứ trọng ân

Hạ tế tam đồ khổ.

Dịch nghĩa:

Trên tường có con hổ

Thân cách đất ba thước

Trên báo bốn ơn dày

Dưới cứu ba đường khổ.

Kinh Kim Cang Bát Nhã là một quyển kinh mà ông Trưởng giả đã thuộc làu. Trong bài thi này chàng dùng hai câu “Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ” là hai câu kệ trong kinh Kim Cang, vì chàng muốn thức tỉnh cho ông trưởng giả luôn luôn nhớ lại Phật pháp. Nhưng trái lại, khi nghe đến hai câu kinh làm cho ông trưởng giả thêm khêu gợi lại lửa hờn xưa, vì ông nhớ bởi tụng kinh nầy mà ba đứa con trai của ông bị chết!

Lúc bấy giờ ông nổi giận lôi đình, la quát om sòm, lần nầy quyết định không tha. Ông bảo: “Nằm xuống! Nằm xuống! Đã ba lần rồi, lần nào ngươi cũng dùng đến danh từ trong kinh Phật, khêu gợi sự tức giận của ta”.

Tay ông vừa đánh và miệng vừa la mắng, đập một hơi không biết mấy chục roi. Thấy thế, động mối từ tâm, nên Lan Phương là con gái ông bước đến khuyên rằng:

- Thôi cha! ... Thôi cha! ... Vì người ta ở gần chùa chiền thấm nhiễm đạo Phật đã lâu, hôm nay chỉ trong tức khắc, Cha bảo họ phải bỏ hết những cái gì mà người ta đã thấm nhiễm, thì không thể được, để sau về ở nhà mình, lần hồi dạy dỗ, chàng sẽ làm được vừa lòng cha. Cha không nhớ Cổ nhân dạy: "Cận châu giã xích, cận mặc giã hắc" hay sao? (gần son thì đỏ, gần mực thì đen). Hơn nữa đã hơn một năm rồi, không biết bao nhiêu nhà thi sĩ văn nhân vào thi, song rốt cuộc đều bị đòn đi ra, không có một người nào tài hay lỗi lạc như anh nầy. Cha chỉ đâu thì anh ứng khẩu ngâm thi liền đến đó, không cần suy nghĩ, rất bặt thiệp, làm thi trong chớp nhoáng, nếu cha còn chê nữa thì con chắc chắn cha không tìm được một người nào hơn nữa.

Nói xong cô bèn trở vào phòng.

Sau mấy lời can gián, cơn nóng giận dịu lần, ông trưởng giả nghĩ thầm có lẽ con mình đã thương chàng nầy nên ông cũng chìu theo ý muốn của con, tha đánh và bảo chàng đứng dậy.

Khi đó ông trưởng giả ngồi suy nghĩ: Con mình nói cũng phải, đã hơn một năm rồi, không biết bao nhiêu tài sĩ văn nhân vào thi, nhưng không có một người nào tài hay bặt thiệp và văn chương hay tuyệt như chàng nầy. Đã ba bài rồi, bài nào cũng xuất sắc, chỉ có một điều, chàng thấm nhiễm đạo Phật đã lâu, nên từ ngôn ngữ cho đến điệu bộ cũng đều nhuộm màu sắc Phật giáo. Nhưng nếu ta cố chấp và gắt gao thế nầy mãi thì chắc không có một người nào được hoàn toàn theo ý muốn, rốt cuộc rồi con ta phải côi cút và lạnh lẽo suốt đời! Thôi ta hãy châm chế và dễ dãi bớt đi, để cho con ta được vui lòng.

Khi đó Lan Phương ở trong phòng phía đông, vừa khoát màn bước ra, diện mạo sáng rỡ như mặt nhựt, điệu bộ khoan thai và thùy mị. Ông liền chỉ ngay vào Lan Phương và bảo chàng làm thi.

Chàng kính cẩn khép nép và ứng khẩu ngâm:

Nhựt xuất hướng đông phương

Diện như minh kính trương

Dung nhan thậm kỳ diệu

Phổ chiếu biến thập phương

Dịch nghĩa:

Mặt nhựt mọc hướng Đông

Diện mạo tợ gương trong

Dung nhan thật kỳ diệu

Soi sáng khắp mười phương.

Lần này có phần êm dịu hơn các lần trước. Ông trưởng giả nghe xong có hơi tức giận, nhưng vẫn còn giữ được thái độ điềm tĩnh vì ông nghĩ thầm rằng: "Do ở gần chùa, chàng bị thấm nhiễm lâu ngày, nên mỗi bài thi đều bị ảnh hưởng đến Phật giáo chớ có lý nào chàng muốn chọc ta mãi như thế?"

Ông ôn tồn hỏi tiếp:

- Này cháu! Bác hỏi thật cháu: Vậy thân thế cháu có phải là nhà Sư chăng?

- Không, thưa Cụ.

- Nếu không phải nhà Sư, sao cháu biết kinh Phật, và trong mỗi bài thi cháu đều dùng những câu kinh, tỏ ra người rất thông Đạo Phật?

- Thưa Cụ, cháu đã thưa: Nhà cháu ở gần chùa Phật, sớm chiều cháu thường được nghe các thầy tụng kinh bái sám, với những giọng hòa hưởn êm dịu và thanh thoát, khi bỗng khi trầm, lúc khoan lúc nhặt; thỉnh thoảng điểm một vài tiếng chuông, ngân nga trong cõi không gian tịch mịch, để đánh thức người say mê trong cảnh mộng, một vài tiếng mõ kêu sương trong đêm khuya thanh vắng, để gọi ai còn say ngủ trong đêm trường. Vì quá thích thú với mùi Thiền, nên cháu để ý thuộc được các bài kinh ấy. Thú thật, cháu không phải là tu sĩ.

Ông trưởng giả yên lặng và nghĩ thầm: "Có lẽ, vì tập nhiễm lâu ngày nên phong độ của chàng này giống hệt nhà tu. Nếu sau khi chàng về làm con rể nhà ta, lần hồi huấn luyện, chắc cũng được vừa theo ý muốn."

Lúc bấy giờ ông hứa sẽ gả Lan Phương cho chàng, và định ngày làm lễ thành hôn cho hai trẻ.

Suốt cả ngày, vì bận việc thi cử quá mệt mỏi, nên đêm nay ông Trưởng giả ngủ sớm. Đang mê man trong giấc điệp, ông bỗng thấy chàng thí sinh đến gọi:

- Thưa Cụ, Cụ có muốn tìm các con của Cụ không? Cháu xin tình nguyện dẫn Cụ đi.

Ông trưởng giả vui mừng hớn hở đáp:

- Còn gì quí bằng! Bác cám ơn cháu lắm.

Hai người dẫn đi một hồi... Ông trưởng giả bỗng thấy một cảnh giới khác thường, rùn rợn!

Ông hỏi:

- Có phải đây là âm phủ không?

- Thưa Cụ, âm phủ thì cháu chẳng biết, cháu chỉ biết chỗ nầy người ta gọi là chốn "huỳnh tuyền" hay gọi là chốn "suối vàng".

- Suối vàng à! Suối vàng à! Bác nghe nói người chết rồi thả hồn xuống "suối vàng". Hôm nay ta xuống đến suối vàng, thế thì ta đã chết rồi sao?

- Không! Cụ chưa chết ạ. Vì Cụ muốn tìm vợ con nên cháu dẫn đến chốn này.

Nói xong chàng dẫn ông đi một đỗi nữa... Xa xa thấy dạng cậu Cả, ông mừng quá giục tốc chạy đến, ôm con và khóc kể:

- Con ơi! Sao con đành bỏ cha mẹ ra đi, làm cho cha ngày khóc đêm sầu! ...

- “Thôi đi ông, tôi đâu phải con cái gì của ông. Nhà ông thiếu nợ tôi. Tôi đến đòi lại. Đòi xong tôi đi, chớ tôi đâu có phải con cái gì của ông.

Ông còn nhớ không? Trên 30 năm về trước tôi là người tá điền của ông, vì ông buộc phải đem thế vợ con trừ nợ, chúng tôi không thể làm theo ý muốn của ông được, nên ông dùng quyền thế ép chế và phá tan gia đình sự nghiệp của tôi. Tức giận quá nên tôi phải tự tử. Cái oan thù này chưa rửa sạch, tôi thề theo báo thù ông.

Bởi thế nên tôi sanh vào nhà ông, trong mấy chục năm, chỉ phá hại gia sản, làm cho ông phải hao tài tốn của. May nhờ ông biết hối hận tu hành nên tôi vui lòng hủy bỏ nợ cũ. Bằng không thì tôi quyết theo báo ông đến tiêu tan sự nghiệp mới thôi.”

Nói xong cậu bỏ đi không chút gì quyến luyến. Thấy con nói thế, ông tuôn rơi nước mắt, tức tưởi khóc một hồi. Chàng thí sinh nói:

- Thôi Cụ, con của Cụ đã nói như vậy, Cụ còn bịn rịn chi nữa cho vô ích! Để cháu dẫn Cụ đi tìm cậu Hai.

Đi một đoạn đường, ông lại thấy người con thứ Hai của ông đang đi ngang qua. Ông vội vã chạy theo, mừng rỡ và kêu vang:

- Con ơi! Con! Sao con đành bỏ cha đi biệt mất, làm cho cha đêm ngày sầu thảm, ốm o gầy mòn đến thế này!

Cậu gạt ngang nói:

- Ai cha con gì với ông. Ông thiếu nợ tôi đến đòi; đòi xong rồi đi, chớ tôi đâu có phải con cái gì của ông. Ông còn nhớ không: trên 20 năm về trước, nhà ông bị mất mấy lượng vàng. Ông nghi cho tôi, nên bắt ra tra khảo. Vì chịu không nổi sự đánh đập tàn nhẫn của người tra, nên tôi phải bỏ mạng. Rồi tiền tài của tôi ông tịch thâu hết. Mặc dù vợ con tôi bị đói rách mà ông cũng chẳng trả lại phần nào. Cái oán thù này tràn ngập, nên tôi thề trở lại nhà ông để báo thù. Khi nhà ông sanh tôi ra, cho đến ngày khôn lớn thì tôi đau ốm liên miên, làm cho hai ông bà có khi lo chạy gần hết tiền của cải, không làm một chút gì lợi cho nhà ông. May thay! Ông biết hối hận, sớm lo tu hành, nên tôi vui lòng xóa bỏ oán thù trước, chỉ đòi ông bấy nhiêu năm thôi.

Nói xong cậu bỏ đi một nước. Ông trưởng giả gạt nước mắt, tức tưởi khóc, chàng thí sinh khuyên:

- Thôi Cụ, thế tình như thế... Cụ còn luyến ái nữa làm chi. Cụ nên đi tìm cậu Ba, thử xem nào.

Chàng dẫn ông trưởng giả đi một khoảng đường nữa, ông thấy đứa con thứ Ba của ông đang đứng nói chuyện với một người bạn ở bên đường. Mừng quá! Ông hấp tấp chạy đến ôm con mà khóc.

- Con ơi! Con! Sao con đành bỏ cha mẹ ra đi, làm cho cha mẹ rầu buồn suốt cả ngày đêm. Mẹ con cũng vì rầu buồn quá, khóc cả ngày đêm không ăn bỏ ngủ, trong mấy tháng trường, nên phải bỏ mình, thả hồn về âm cảnh.

- “Thưa ông! Tôi thiếu nợ ông, tôi phải đến trả, trả xong tôi đi; chớ tôi không phải con cái gì của nhà ông. Ông còn nhớ không? Trên 20 năm về trước, ở trong bọn tá điền của ông, có một gia đình rất nghèo, nhà dột cột xiêu, thiếu trước hụt sau, làm suốt cả năm, bị ông thâu góp hết. Nào lúa vốn lúa lời, lúa quần lúa áo, đến mùa rồi chỉ phủi hai bàn tay không. Cả gia đình suốt năm nầy đến năm nọ, phải mặc rách ăn hèn, tai bùn chân lấm, tóc rám môi chì, da đen mặt nám, cực khổ suốt đời, ấy là gia đình của tôi.

Khi cha tôi chết đã 3 ngày mà không có hòm chôn, đến xin ông chẳng được, mà vay tiền thì ông bảo phải trả lời 20. Chao ôi! Của đâu mà trả! Túng thế, tôi phải lẻn vào nhà ông, trộm lấy 5 lượng vàng để đem về chôn cất cha tôi.

Chôn cất xong tôi có thề với Phật Trời rằng: "Kiếp này trả không được, xin nguyện kiếp sau".

Vì lao tâm cùng lao lực, bởi gia đình nghèo khổ nhiều năm, nên trong vài năm sau tôi phải lâm bịnh nặng, rồi từ biệt cõi đời! ...

Sau khi chết, tôi đầu thai vào nhà ông, để thanh toán số nợ nần mà tôi đã thiếu ông ngày trước.

Ông sanh tôi ra, đến khi khôn lớn thì tôi vẫn lam lụ làm ăn, làm cho cửa nhà ông tiền vô như nước. Nợ ông thanh toán đã dứt khoát rồi, nên tôi đi nơi khác. Hôm nay ông còn tìm kiếm tôi làm gì? ”

Nói xong, cậu bỏ đi. Ông trưởng giả lấy hai tay bụm mặt, nức nở khóc và than:

- Chao ôi! Vậy cảnh trần gian này có phải là một bãi trường để vay trả, trả vay nợ nần cho nhau chăng?

Chàng thí sinh khuyên lơn một hồi, rồi dẫn ông đi tìm bà trưởng giả. Hai người cùng đi được một khoảng đường, đến một cảnh âm u tịch mịch, ông trưởng giả thấy một người mình gầy vóc ốm chỉ còn da bọc xương, in như đã bị đói khát nhiều ngày. Đầu người bạc trắng phới, má hóp, đôi mắt sưng vù, đang ngồi rên khóc dưới một gốc cây. Ông bước gần đến mới nhận ra là bà trưởng giả. Ông gọi:

- Bà ơi! ... Bà!

- Ai đó?

- Tôi là ông trưởng giả đây. Vậy chớ tại sao thân hình bà tiều tụy, khổ sở đến thế nầy?

- Ông ôi! Ông ngồi xuống đây để tôi kể chuyện cho mà nghe. Vì tôi quá tham lam độc ác, muốn cho gia đình mình giàu có muôn hộ, mà tôi phải tạo nhiều tội lỗi. Tôi có ngờ đâu: Làm ra thì cả chồng con chung hưởng, mà bây giờ đây một mình tôi phải chịu tội khổ đến thế nầy! Ngày đêm đói khát, đã mấy tháng rồi không ăn được một chút cháo hay một miếng cơm. Thân hình tôi chỉ còn da bọc xương, lại còn bị hành phạt khổ sở lắm điều.

- Vậy chớ bà làm tội gì?

-“Ông không nhớ sao? Một lần nhà mình bị mất 5 lượng vàng, nghi cho thằng ở, bắt ra tra tấn, nó chịu không nỗi phải bỏ mình. Khi nó chết rồi, bỏ lại một ít tiền của. Ông bảo trả về cho gia quyến nó. Tôi lại giấu đi chẳng chịu trả. Đến khi vợ con nó kiện ra đến quan làng, tôi lại thề rằng: “Nếu tôi có nói ngược, thì cho hai con mắt của tôi chảy máu, đui và chết.”

Tưởng rằng không Trời không Phật, không ai hay biết, nào hay đâu: “Lưới Trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt”. Tôi vẫn tưởng thề càn cho qua buổi; không ngờ nhơn nào quả nấy. Khi các con chết rồi, tôi rầu khóc luôn mấy ngày đêm, bỏ ăn bỏ ngủ, nên đôi mắt chảy máu, sưng vù và đui mù đến thế nầy. Khổ sở lắm ông ơi! Ngoài ra còn nhiều tội ác không sao kể hết.

Hôm nay ông đến đây thăm tôi, nếu ông còn nghĩ chút nghĩa tào khang tình xưa bạn cũ, thì sau khi trở về dương thế, ông nên vì tôi mà chuẩn bần bố thí làm các việc từ thiện và cầu siêu độ cho vong hồn của tôi. Một điều ông phải nhớ là nên lo tu tâm dưỡng tánh, làm những điều hiền đức để nhờ kiếp sau.”

Đến đó, ông tỉnh giấc mộng trường, mồ hôi vả ra như tắm, trong lòng còn hoang mang sợ hãi vô cùng, ông Trưởng giả bỗng nghe trên không trung có tiếng gọi:

- “Trưởng giả! Ông trưởng giả! Ta đây là Quan Thế Âm Bồ Tát. Vì thấy nhà ngươi là kẻ trần gian mê muội, chạnh lòng thương xót, cho nên ta hóa hiện làm chàng thí sinh để đến nhắc thức nhà ngươi.

Bởi nhà ngươi ngày trước tạo nhiều điều tội ác, nên ngày nay bị oan gia nghiệp báo đến báo lại ngươi. Ngươi hãy nhớ lại kỹ: Từ khi nhà ngươi sanh con trai đầu lòng, đến khôn lớn, nó chỉ phá hại gia tài sự sản của ngươi, đôi khi nó còn muốn giết cả vợ chồng ngươi để tự do phá của. Bởi mấy mươi năm về trước, ngươi có làm một việc tội ác, là buộc một người tá điền đem vợ con đến thế nợ. Chúng không làm theo ý muốn của ngươi. Lúc bấy giờ nhà ngươi dùng quyền thế ép chế, vì chịu không nổi nên chúng phải tự tử. Việc đó nhà ngươi còn nhớ chăng? Bởi thế nên chúng đầu thai lại nhà ngươi để báo thù cho đến ngày cuối cùng. Nhờ ngươi biết ăn năn hối ngộ, lo tu hành, nên nó chỉ đòi bấy nhiêu đó thôi.

Thằng thứ Hai là đứa ở của nhà ngươi. Ngươi nghi nó ăn cắp vàng, đem ra tra tấn đến chết. Cái oan hồn ấy trở lại nhà ngươi để báo thù, nên khi sanh ra cho đến lớn, nó cứ đau mãi, để hai vợ chồng ngươi phải lo chạy thuốc men, hao tốn gần hết tiền của. Và nó còn phá tán gia tài sự sản của ngươi. Nhờ người có tu hành, nên nó mới thôi đòi nợ.

Thằng thứ Ba, vì ăn trộm của ngươi năm lượng vàng, để đem về chôn cất cha nó, nên phải đến trả lại cho ngươi. Vì thế nên khi ngươi sanh ra nó, nó làm cho gia đình ngươi tiền vô như nước. Khi trả nợ xong rồi, nó đi nơi khác. Nhơn nào quả nấy, không có sai chạy.

Nhà ngươi nên biết: Do oan trái kiếp trước, nên kiếp này phải trở lại, kẻ làm vợ, người làm chồng và làm con cái v.v... để đền trả cho nhau đó thôi. Sách nói: “Vô oan trái bất thành phu phụ”. Nay chúng nó chết đi, là oan gia ngươi đã trả xong. Thế mà nhà ngươi mê muội không biết, lại hờn Trời oán Phật, tạo thêm tội lỗi, thật đáng thương xót!

Bởi trước kia người tạo cái nhơn tội ác, nên nay phải trả. Còn người mới tu hành vài ba năm nay, vì cái nhơn nầy chưa hoàn bị, nên người chưa được quả lành.

Thí như người năm nay làm 100 công ruộng, mà vẫn bị thiếu trước hụt sau, là vì năm rồi họ chỉ cờ bạc ăn chơi nợ nần ấp lút, nên năm nay phải chịu thiếu hụt. Còn ruộng làm năm nay tuy nhiều, xong sang năm họ mới hưởng được.

Một thí dụ thứ hai: Như chú Xoài trộm cướp sát nhơn, chú mới vừa buông cái dao vào chùa tu niệm; ít ngày bị lính đến bắt bỏ tù. Không phải vì tu mà bị lính bắt, mà chính vì chú gây cái nhơn trộm cướp trước kia, nên nay bị cái quả ở tù. Còn sự tu hành làm phước hiện nay, phải thời gian sau mới hưởng quả.

Người đời không thấy xa, chỉ nhìn hiện tại, rồi vội vàng trách móc Phật Trời: "Tôi tu hành lo làm lành làm phước, sao lại gặp tai nạn thế này!"

Nhà ngươi là người có học thức, sao lại chẳng nhớ câu: “Thiệc ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lại tảo dữ lai trì” nghĩa là: làm lành hay làm dữ, rốt cuộc rồi đều có quả báo, chẳng qua đến sớm hay đến muộn mà thôi .

Trong kinh nói: “Dã sử bá thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhơn duyên hội ngộ thời quả báo hoàn tự thọ” nghĩa là: người tạo ra một nghiệp gì, dầu trải qua trăm ngàn muôn kiếp cũng không mất, khi nhơn duyên đến rồi, quả báo này phải chịu.

Vậy nhà ngươi từ đây nên ăn năn, hối ngộ lo tu tâm dưỡng tánh, để nhờ kiếp sau...”

Nhờ mấy lời giáo hóa của đức Quan Thế Âm Bồ Tát, mà ông phú trưởng giả kia được giác ngộ, hồi tâm hướng thiện, tinh tấn tu hành.

Tòa lâu đài nguy nga đồ sộ của ông trước kia, lúc bấy giờ biến thành chốn thiền lâm tu niệm, là nơi lễ Phật đi chùa của khách hành hương rộn rịp...


   

 


       CHIÊM MỘNG TRONG KINH ĐIỂN PÀLI

     Trong hàng chục chuyện mộng mị mà chúng tôi đọc thấy trong kinh điển Nam Truyền, chúng tôi chú ý đến hai trường hợp thiển nghĩ là đáng lưu tâm nhất, vì người lý giải các giấc mộng này chính là đức Phật.

    Trước hết, trong Tăng Chi Bộ (phần Năm Pháp) có ghi rằng trong đêm trước ngày thành đạo dưới gốc Bồ Đề, hoàng tử Tất Đạt đã nằm mộng thấy năm chuyện kỳ lạ và sau này khi kể lại, đức Phật đã giải thích rằng đó là điềm báo trước cho những gì xảy ra với Ngài sau đó:

1. Ngài mộng thấy mình bỗng hoá khổng lồ và nằm gối đầu lên núi Himalaya, thòng tay xuống đại dương. Đây là điềm báo sau đó Ngài trở thành bậc Đại giác.

2. Ngài  mộng thấy từ rốn mình mọc ra một loại cỏ vươn cao mấy tầng mây. Đây điềm báo cho việc Ngài tìm thấy nẻo giải thoát qua Bát Chánh Đạo và đem giáo hoá khắp nhân thiên muôn cõi.

3. Ngài mộng thấy nhiều con giun màu trắng bò lên chân mình và phủ kín đầu gối. Đây điềm báo về sự xuất hiện đông đảo các cư sĩ áo trắng (tại gia nhưng nghiêm cẩn) trong giáo pháp Ngài sau này.

4. Ngài mộng thấy có bốn con chim với bốn màu lông khác nhau từ bốn phương bay về đậu dưới chân mình rồi đều có chung một màu lông trắng bạch. Đây là điềm báo cho việc thiên hạ tứ phương, đủ mọi tầng lớp cao thấp, sau này về thờ Ngài là thầy.

5. Ngài mộng thấy mình đi kinh hành trên một ngọn núi toàn phân người, nhưng hai chân tuyệt không bị vấy bẩn mảy may. Đây là điềm báo về việc Ngài sẽ nhận được sự kính lễ, cúng dường khắp nhân thiên với một lòng vô nhiễm.

   Trường hợp thứ hai là mười sáu giấc mộng lạ lùng của vua Ba-Tư-Nặc (Pasenadi) trong thời Phật tại thế. Theo chú giải Bổn Sanh Kinh (tích 77), vua mộng thấy liên tục những chuyện lạ lùng vô lý và sau nhiều bàn soạn của cả triều đình, ông đã theo lời hoàng hậu Mallikà vào hầu Phật và thưa chuyện với Ngài. Đức Phật đã giải thích ý nghĩa điềm triệu của từng giấc mộng mà vua đã thấy:

   1- Vua mộng thấy thiên hạ kéo nhau đến xem một bầy bò mộng đang hung hăng như sắp húc nhau sinh tử, nhưng sau cùng, cả bầy bò chỉ gườm nhau giây lát rồi tự động bỏ đi. Đây là điềm báo về chuyện thiên hạ về sau thiếu tu hành khiến thời tiết mùa màng xáo trộn, thấy vậy mà không phải vậy, kết quả là hạn hán, lụt lội, gì cũng bất ngờ khó lường.

   2- Vua mộng thấy cây cối bỗng dưng thu nhỏ bất thường, nghĩa là cao hơn gang tay mà đã đầy đủ hoa trái. Người xưa chưa biết chơi cây kiểng Bonsai nên dĩ nhiên thấy đó là chuyện lạ. Thực ra đó là điềm báo việc sau này loài người ngày càng đắm nhiễm nhục dục, nam nữ đều sớm biết chuyện ái ân từ lúc còn rất nhỏ tuổi. Đó cũng là một đại hoạ của thế giới.

   3- Vua mộng thấy mấy con bò cái tìm đến bú sữa mấy con bê bé xíu thay vì theo thường tình thì ngược lại. Đây là điềm báo về việc sau này vị trí của cha mẹ cùng các bậc trưởng thượng trong nhà ngày càng xuống thấp, con cái nắm hết quyền hành và người lớn phải cung đón phục lụy đám nhỏ để được chăm sóc.

   4- Vua mộng thấy người ta bỏ bê những con bò cao to khỏe mạnh và thay vào đó lại sử dụng mấy con bê thấp bé vào những việc nặng nhọc. Đây là điềm báo về việc thiên hạ sau này mến chuộng cơ xảo giả trá để những kẻ tiểu nhân bất tài lại đắc thế được giao phó những trọng trách vượt quá khả năng và những kẻ tài đức trở thành của thừa trong thiên hạ.

   5- Vua mộng thấy một con ngựa có hai cái miệng có thể cùng lúc ăn cỏ cả hai bên. Đây là điềm báo về sự xuất hiện tràn lan của những tham quan cai trị thiên hạ sau này, nước nào cũng có.

   6- Vua mộng thấy người ta dùng một cái chén bằng vàng để hứng lấy nước tiểu của một con chó rừng. Đây là điềm báo trước về việc trong thiên hạ mai sau sẽ đảo lộn mọi trật tự xã hội, chẳng hạn khái niệm hoàng gia quý tộc sẽ bị xem như chuyện cổ. Những kẻ thấp hèn bất xứng sẽ được những bậc cao nhân tôn đức quỳ lụy hầu hạ. Họ phải vậy để kiếm sống và được yên thân.

   7- Vua mộng thấy có người ngồi đan dây thừng và một con chó ngồi bên dưới cứ nhai hết những đoạn dây vừa bện xong. Đây là điềm báo trước về sự xuất hiện rầm rộ của những phụ nữ phóng đãng, dâm dật sau này bòn rút tiền của từ đàn ông để tiêu pha khiến thiên hạ tan nhà nát cửa. Cả thế giới tương lai sẽ bị hút vào cơn lốc phá sản ngọt ngào này.

   8- Vua mộng thấy người ta xếp nhiều lu vại cạnh nhau rồi ai cũng tranh nhau đem nước đổ vào chiếc vại ở giữa đến lúc nó tràn cả ra ngoài nhưng họ vẫn tiếp tục, trong khi đó những chiếc vại bên cạnh không có được một giọt nước nào. Đây là điềm báo cho việc sau này dân chúng các xứ lao lực suốt đời vẫn đói khổ cùng cực và những gì họ làm ra chỉ để cung đốn phủ phê cho những người cai trị họ hưởng thụ đến thừa mứa.

   9- Vua mộng thấy có nhiều muông thú đến uống nước trong một hồ nước trong sạch tinh khiết ở ven bờ nhưng cặn cáu dơ bẩn ở giữa lòng hồ. Đây là điềm báo trước cho việc thiên hạ đời sau vì muốn trốn tránh những người cai trị bất hảo, nên sẽ từ bỏ nơi lẽ ra phải ở để cùng nhau tìm đến sinh sống chỗ xa khuất và do đó họ vô tình làm giàu đẹp chỗ tạm dung.

   10- Vua mộng thấy một nồi cơm chín dở dang với một phần nhão, một phần sống và chỉ một phần chín tới ngon lành. Đây là điềm báo cho việc sau này do chúng sinh ngày càng bất thiện, khiến chư thiên phẫn nộ, và ác nghiệp kia cũng chiêu cảm cả thiên nhiên. Điều đó khiến trời đất trong thiên hạ sẽ tự khu biệt thành những miền đất có mức sống chênh lệch nhau: chỗ thì thái hoà sung túc và nơi thì đói khổ đoạ đày.

   11- Vua mộng thấy thiên hạ có thể dùng chút bơ tươi mà đổi được những miếng trầm kỳ đáng giá ngàn vàng. Đây là điềm báo cho việc sau ngày Phật tịch, chánh pháp ngày càng bị xem rẻ, nhiều vị tăng sĩ đời sau xem Phật Pháp là phương tiện đổi chác danh lợi. Họ đi rao giảng Phật pháp chỉ vì ước muốn có được những lợi ích vật chất, đôi khi chỉ là một bữa ăn ngon hay một món đồ vừa ý.

   12- Vua mộng thấy một trái bầu khô rỗng ruột vừa bị ném xuống nước đã chìm ngay. Đây là điềm báo trước sự hỗn loạn của thiên hạ đời sau. Ngoài thế tục, kẻ gian manh đốn mạt sẽ đắc thế trong xã hội, lý lẽ ngang ngược xằng bậy sẽ được đa số tán thưởng. Trong Phật môn, hàng ác tăng sẽ lấn lướt chế ngự các vị chơn tăng.

  13- Vua mộng thấy những tảng đá lớn nổi bồng bềnh trên nước. Đây là điềm báo về sự bẽ bàng, khinh thị của đa số thiên hạ về sau đối với những người khả kính trong đạo ngoài đời. Tiếng nói của họ không có ảnh hưởng đối với quần chúng.

  14- Vua mộng thấy mấy con nhái nhỏ xíu yếu ớt lại rượt bắt những con rắn lớn để ăn thịt. Đây là điềm báo cho một tình trạng thê thảm trong các xã hội ngày sau, khi người đàn ông vì mê luyến nữ sắc nên giao hết quyền hành cho họ cai quản mọi thứ và từ đó phải sống kiếp hèn mọn là nhìn mặt thê thiếp buồn vui để liệu bề cư xử.

  15- Vua mộng thấy một con quạ xấu xí được vây quanh với những loài chim xinh đẹp hiếm quý. Đây là điềm báo cho một tệ nạn trong tương lai là khi giới quý tộc không đủ tài đức để cai trị thiên hạ nữa, đám thất phu giảo hoạt bất chính sẽ chiếm quyền và hàng quý nhân kia giờ lại thành kẻ tôi đòi, nô lệ.

   16- Vua mộng thấy một đàn dê rượt đuổi bầy chó sói. Đây là điềm báo cho sự đắc thế của người bất xứng trong đạo lẫn ngoài đời sau này.

   Ngoài ra, cỏn có những giấc mơ sau:

1)   Trường hợp đầu tiên là: chuyện hoàng hậu Mahà Màyà nằm mộng thấy bạch tượng trước khi có mang hoàng tử Tất Đạt.

2)   Trường hợp thứ hai là: chuyện vua Bimbisàra (Tần Bà Sa La) mộng thấy quyến thuộc xưa về kêu khổ và sau đó tổ chức trai đàn cầu siêu.

3)   Trường hợp thứ ba là: hoàng hậu Dhammà của vua Bindusàra đã nằm mơ thấy mình ăn đất và sau đó có mang vua A Dục (thế kỷ thứ ba Phật lịch).

***

   Ngài A Nan, đệ nhất đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni trong 27 năm, khi còn trú tại thành Xá Vệ, ở phía Bắc Ấn Độ, Ngài đã có 7 giấc mơ kỳ lạ:

   1. Mộng thấy lửa cháy đùng đùng trên mặt nước, những cột lửa nghi ngút tận trời cao.

   2. Mộng thấy mặt trời biến mất, để lại thế giới Ta Bà chìm trong bóng tối. Thậm chí không có một vì sao trên bầu trời.

   3. Các tăng ni, phật tử bị rơi xuống một cái hố sâu, để cho con người thế tục bước qua trên đầu.

   4. Rất nhiều lợn rừng trong rừng rậm đào xới gốc cây Bồ Đề.

   5. Mộng thấy A Nan đội đỉnh núi Tu Di trên đầu mà không hề thấy nặng.

   6. Voi bố mẹ bỏ lại đàn con của mình.

   7. Cái chết của sư tử, chúa tể rừng xanh. Những cánh hoa rơi trên xác con sư tử, tất cả thú vật đều bỏ chạy toán loạn. Không lâu sau, các con bọ bắt đầu xuất hiện trong cái xác và ăn thịt nó.

   Không sao hiểu được giấc mơ của mình, Ngài A Nan tìm đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni để hỏi cho minh bạch. Đức Phật Thích Ca giải thích:

   “Giấc mơ đầu tiên của con về ngọn lửa cháy trên mặt nước với những cột lửa nghi ngút tận trời cao. Nó có nghĩa rằng trong tương lai, các tăng ni trong chùa sẽ trở nên đồi bại và thiếu thiện tâm. Cũng giống như biển nước biến thành biển lửa, chúng sẽ dẫm đạp lẫn nhau và làm ra vẻ tao nhã để tranh giành tài vật cúng dường”

   “Trong giấc mơ thứ hai, mặt trời bị nhấn chìm, cõi Ta Bà chìm trong bóng tối, không có một vì sao trên trời. Điều này ngụ ý không lâu sau, Như Lai và các đệ tử của Ngài sẽ nhập Niết Bàn. Và đó cũng chính là dấu hiệu cho con người biết rằng Thiên Nhãn chẳng bao lâu nữa sẽ đi đến hủy diệt”

   “Giấc mơ thứ ba là cảnh các tăng ni bị rơi xuống một cái hố sâu và người thế tục bước qua trên đầu họ. Điều này nói lên rằng trong tương lai, các tăng ni trong chùa sẽ sinh ra tâm tật đố, ghen tị, nói xấu lẫn nhau, không tin vào nghiệp báo, coi thường giới cấm, chìm đắm trong tiện nghi vật chất, cuối cùng trở thành đối lập với cái Thiện và bị đọa lạc xuống địa ngục sau khi chết. Bên cạnh đó cũng có những người tu luyện trong xã hội bình thường mà chuyên tâm hơn những tăng ni kia. Họ sẽ được thăng thượng lên Thiên Đàng sau khi chết”

   “Trong giấc mơ thứ tư, con nhìn thấy những con lợn rừng đào xới gốc cây Bồ Đề trong khu rừng rậm. Điều này ngụ ý nói rằng các tăng ni trong tương lai sẽ chỉ để tâm đến sinh nhai của riêng mình, sẵn sàng bán cả tượng Phật và kinh sách chỉ vì chút lợi lộc.”

   “Giấc mơ thứ năm nói về việc con phải đội trên đầu cả đỉnh núi Tu Di nhưng lại không hề cảm thấy nặng. Điều đó chỉ ra rằng sau khi Thế Tôn nhập Niết Bàn, con phải có trách nhiệm biên soạn và phổ truyền kinh thư cho các đệ tử Phật Giáo tương lai.

   “Giấc mơ thứ sáu về những con voi bố mẹ bỏ rơi đàn con của mình. Điều này tượng trưng rằng những tư tưởng xấu xa sẽ trở nên phổ biến trong xã hội và như thế sẽ làm tổn hại đến việc phổ truyền Đạo Phật. Những người có đạo đức và phẩm hạnh cao đều bị khuất sau điều đó.”

   “Trong giấc mơ thứ bảy, con nhìn thấy cái chết của con sư tử, chúa sơn lâm. Những cánh hoa quý rơi trên xác con sư tử nhưng muôn thú lại sợ hãi bỏ chạy. Không lâu sau, các con bọ xuất hiện bên trong cái xác và ăn thịt nó. Điều này ngụ ý rằng không ngoại đạo phá hoại Phật Pháp. Chỉ có các đệ tử của ta, cả những phật tử tại gia và người xuất gia mới có thể là nguyên nhân làm huỷ hoại Pháp này.”

   7 giấc mơ của Anan đã báo trước tương lai của Phật Giáo. Ngoại trừ giấc mơ thứ 5, còn lại tất cả đều tượng trưng cho sự suy đồi và huỷ diệt của Phật Giáo. Đặc biệt trong giấc mơ thứ 7 “các con bọ bắt đầu xuất hiện và ăn thịt cái xác”, đã nói trước về tình trạng của các đệ tử Phật Giáo thời Mạt Pháp. Họ không còn đi theo Phật Giáo để tu luyện, coi thường giới luật, chạy theo danh và lợi, và dần dần huỷ hoại Phật Giáo từ bên trong. Trong khi lớp vỏ của Phật Giáo vẫn còn tồn tại, thực tế thì bản chất của nó đã mục ruỗng cả rồi! Chính vì thế, nó không còn sức mạnh để cứu độ con người.

   Tôi thực sự hy vọng rằng các đệ tử Phật Giáo có thể tĩnh lặng nhìn vào trong tâm và đọc những dòng này, hãy dùng lý trí để suy ngẫm về thời Mạt Pháp này. Phật Giáo đã thực sự xa rời bản chất nguyên thuỷ của nó. Nó đã bị biến đổi đến nỗi không thể nhận ra và không còn có thể cứu độ con người được nữa. Đừng chìm sâu thêm nữa trong thời Mạt Pháp này mà bỏ lỡ cơ hội tu luyện trong Đại Pháp.


 


 


   MỸ NHÂN TỰ HỦY SẮC ĐẸP ĐỂ XUẤT GIA

    Ni sư Ryonen sinh năm 1797. Ni sư là cháu của một vị tướng quân nổi tiếng Nhật Bản Shingen ( Võ Điền Tín Huyền ). Nhờ vẻ đẹp quyến rũ và thiên tài thi phú mà năm mười bảy tuổi cô đã trở thành một trong những tỳ nữ của Nữ Hoàng trong hoàng cung.

   Thế nhưng, Nữ Hoàng yêu quí đột ngột từ trần đã thức tỉnh Ryonen về các pháp vô thường. Vì vậy mà cô khao khát học thiền. Tuy nhiên, Ryonen đã phải gác ước mơ của cô sang một bên vì họ hàng ép cô lập gia đình.

   Ryonen chấp nhận lập gia đình với điều kiện là sau khi sinh 3 con, cô sẽ được quyền tiếp bước trên con đường học thiền của cô.

   Sau khi sinh hạ 3 con, cô từ giã gia đình trước khi bước vào tuổi hai mươi lăm. Vì chồng và gia quyến không thể ngăn cản ước mơ của cô nên Ryonen đã lên đường tầm sư học đạo.

   Trên con đường tầm sư học thiền, Ryonen đã đến thành phố Edo và thỉnh cầu thiền sư Tetsugyu nhận cô làm đệ tử. Tuy nhiên vừa thoáng nhìn qua, thiền sư Tetsugyu liền từ chối ngay vì cô quá đẹp.

   Sau đó, Ryonen tìm đến thiền sư Hakuo. Vị thiền sư này cũng từ chối cô, nói rằng sắc đẹp của cô có thể là nguyên nhân duy nhất gây nên phiền toái. Với ý chí quyết tâm học thiền, Ryonen lấy một bàn ủi nóng áp lên mặt đốt cháy sắc đẹp của cô trong giây lát. Khi đó, thiền sư Hakuo đã chấp nhận cô làm đệ tử.

 

   Để ghi nhớ sự kiện này, Ryonen viết một bài kệ lên mặt sau của một tấm gương:

 

   Khi hầu Hoàng hậu ta đốt trầm hương để xông xiêm y rất đẹp của ta. 

   Bây giờ làm kẻ khất thực không nhà, ta lại đốt mặt để được vào thiền viện.

 

   Khi sắp viên tịch, Ryonen viết một bài kệ khác:

 

   Sáu mươi sáu lần đôi mắt này đã chứng kiến cảnh mùa thu thay đổi.

   Ta đã nói đủ về ánh trăng, đừng hỏi nữa.

   Hãy lắng nghe tiếng  nói của hàng thông và bách hương khi gió lặng.

   Thích Minh Trí biên dịch

  


 



 

   PHÉP LẠ CỦA TÂM LINH

   Thông điệp của anh là “Hãy tạo cho mình một niềm tin và một cái tâm bình an”. Tôi nghĩ thông điệp này đâu chỉ dành cho người bệnh, mà còn dành cho tất cả chúng ta, những người đang sống trong một thời đại đầy biến động này.

 

   Anh Cẩn sinh năm 1949. Hiện anh đang sống ở thành phố Encinitas, miền Nam California.

   Có thể nói anh là một trong những người Việt di tản thành đạt ở Mỹ. Sang Mỹ từ năm 1975, anh bắt đầu làm việc ngay trong lĩnh vực điện toán. Với kinh nghiệm từng làm việc trong ngành điện toán khi còn ở Việt Nam, anh nhanh chóng thăng tiến trong ngành công nghệ quan trọng này của Mỹ.

   Đến năm 1990, anh đã nắm giữ những chức vụ cao trong các hãng lớn như General Electric. Anh quyết định mở doanh nghiệp riêng của mình. Công việc kinh doanh của các công ty phần mền (software) do anh sáng lập đều thành công ở những mức độ khác nhau.

   Theo anh Cẩn, con đường đến với Phật Pháp của anh cũng tương tự với những người thuộc giới trí thức đang làm việc trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Anh theo đạo Phật vì mẹ là một Phật tử thuần thành, thường xuyên đi chùa, tụng kinh.

   Lúc trẻ anh đọc rất nhiều sách Phật, cũng thiền tập, nhưng là để thoả mãn nhu cầu về tri thức hơn là tìm cho mình một con đường đi trong cuộc sống. Một tác động lớn đến đời sống tâm linh của anh xảy ra cách đây hơn chục năm, trong anh khi đang điều hành công ty của mình ở Mỹ.

   Hôm đó, có một nhân viên lên gặp anh khóc và nói rằng mình bị áp lực lớn vì không theo nổi cách làm việc của anh. Anh Cẩn hết sức ngạc nhiên, vì anh thuộc loại giám đốc biết quan tâm đến nhân viên. Có điều anh luôn yêu cầu nhân viên phải làm việc đúng như cách của anh làm, để họ cũng thành công như anh.

   Anh quên mất là không phải ai cũng có khả năng như anh được. Hóa ra là cho dù đang muốn làm một việc tốt, nhưng vì chấp ngã, nên vô tình anh làm tổn thương người khác! Qua sự kiện đó, anh bắt đầu nhìn lại mình.

   Anh bắt đầu trở nên biết lắng nghe người khác hơn. Anh bắt đầu tìm cách đem Phật Pháp áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày. Anh Cẩn rất quan tâm đến Phật giáo Tây Tạng. Theo anh, truyền thống Tây Tạng vạch ra con đường tu tập rõ ràng cho các Phật tử còn đang sống cuộc đời thường như anh. Vẫn biết “tu là chuyển nghiệp” như nhiều thầy đã dạy, nhưng “chuyển bằng cách nào?”

   Phật Giáo Tây Tạng đưa ra cho anh Cẩn câu trả lời cụ thể hơn. Do đó, anh thường lên nghe giảng pháp ở ngôi chùa Tây Tạng ở Long Beach, nơi có Lạt Ma Geshe Tsultim Gyeltsen trụ trì. Ngài là một trong những chư vị cao tăng của Phật giáo Tây Tạng, rất được Đức Đạt Lai Lạt Ma quí mến.

 

    Dĩ tâm ứng tâm

    Vào khoảng tháng 06/2007, anh Cẩn thấy sức khoẻ mình tự nhiên suy kiệt hẳn.

   Vì sao thì bác sĩ chưa chẩn đoán được. Phải đợi đến khi anh thấy mình bị chứng “double vision” - một vật mà nhìn thành hai - anh mới khám bác sĩ nhãn khoa rồi được chuyển qua bác sĩ khác để cho scan não bộ của anh. Lúc đó họ phát giác là anh bị ung thư phổi, đã di căn tới não, nên họ tức tốc đưa anh vào nhà thương.

   Đối với y học, ca của anh Cẩn có vẻ như đã quá trễ. Bác sĩ vẫn bắt đầu phương pháp xạ trị mà không ai hứa hẹn điều gì. Cuộc sống của anh tính theo từng tháng. Chỉ còn chờ phép lạ …

   Đối với một người đọc sách Phật nhiều như anh Cẩn, anh cũng biết sinh tử là vô thường. Nhưng khi phải đối mặt trực diện với nó, anh mới thấy mọi kiến thức trước đây của mình về cái chết sao chỉ là một mớ khái niệm rỗng, không giúp gì được cả. Anh cảm thấy hoang mang quá đỗi. Anh chưa chuẩn bị sẵn sàng cho việc đi về một nơi nào đó đằng sau cái chết. Bởi vì anh vẫn còn lo cho vợ anh, con anh, và cả doanh nghiệp đang làm việc nữa, sau này không có anh rồi sẽ ra sao.

   Anh cố tự nhủ rằng mình chấp và bám víu như vậy là sai với tinh thần nhà Phật, nhưng anh không thể nào chế ngự được nỗi sợ hãi khi hình ảnh cái chết và vợ con mình hiện lên trong đầu. Cùng với cơ thể bệnh hoạn, tâm anh lại bị thiêu đốt trong sự sợ hãi. Thân tâm anh suy sụp toàn diện !

   Đến lúc như tuyệt vọng, tự nhiên anh nghĩ đến Lạt-Ma Geshe Tsultim Gyeltsen. Anh nhờ một người bạn thân đến chùa ngay để trình bày với thầy về hoàn cảnh của anh, và xin được qui y với Ngài. Thầy nhận lời ngay. Cuối tuần đó, anh sung sướng được gặp thầy, và được thầy làm lễ qui y chính thức.

   Anh xin thầy lời khuyên về sự giải thoát cho bản thân mình. Lời khuyên của Ngài thật đơn giản: giao tất cả mọi chuyện vướng bận trong đời lại cho người thân, để chuẩn bị cho mình vượt lên trên tất cả những lo toan đó.

   Với một niềm tin mãnh liệt vào vị thầy tôn kính, anh thực hiện đúng như vậy. Anh bàn giao công việc, tài sản lại cho người thân của mình lo liệu. Anh tức tốc lấy vé máy bay để cùng vợ đi Hawai, với ý nghĩ là tận hưởng những ngày tháng cuối để vui với gia đình. Đúng cái đêm trước ngày khởi hành, “phép lạ” xảy ra.

   Tối hôm ấy, anh cũng ngồi thiền để tĩnh tâm như mọi khi. Và khi anh nhắm mắt lại, anh thấy tự nhiên trong tâm anh tràn ngập hình ảnh vị thầy tôn kính của mình. Kỳ diệu hơn nữa, tâm của anh hoàn toàn tĩnh lặng cùng hình ảnh của thầy. Không cần một cố gắng nào cả, sự sợ hãi đang chế ngự anh trước đây tự nhiên biến mất. Giống như người lạc giữa sa mạc gặp được dòng suối mát, anh đã để tâm mình an trú trong những giây phút bình an tuyệt diệu đó.

   Đây là một dạng kinh nghiệm thực chứng của thiền quán mà không phải ai cũng tìm được, dù một lần trong đời.

   Hôm sau, anh đem theo niềm an lạc đó sang Hawaii cùng với kỳ nghỉ của mình. Buổi sáng đầu tiên ở Hawai, anh chống gậy đi ra biển để ngắm bình minh. Và trong khi để tâm mình theo dõi vẻ đẹp của trời biển trong lúc mặt trời lên, hình ảnh của thầy lại tràn ngập trong anh cùng với thiên nhiên.

   Bình an lại đến ! Anh cảm thấy hạnh phúc trong giây phút hiện tại quá đỗi! Lúc đó, anh mới thực sự ngộ ra rằng giây phút hiện tại là hiện hữu nhiệm màu nhất.

   Nó không có khởi đầu, không có kết thúc. Nó chỉ là những cảm thọ bình an nối tiếp trong tâm một cách bất tận, và anh đã an trú được trong nó.

   Khi về lại Cali, anh gặp thầy và kể lại những thể nghiệm này của mình. Ngài chỉ cười mà không giải thích thêm. Mà anh cũng không chờ đợi được giải thích vì cuộc sống của anh đã thực sự thay đổi rồi. Anh vẫn điều trị bệnh theo bác sĩ.

   Thời gian còn lại, anh tận hưởng từng giây phút của cuộc sống với gia đình, bạn bè của mình. Sống trọn vẹn như vậy, anh nghĩ rằng không có gì khác biệt giữa việc mình sống thêm một năm hay mười năm nữa.

   Bốn tháng sau, bác sĩ scan lại và không phát hiện ra sáu cục bướu trước đây nằm trên não của anh nữa. Có vẻ như anh đã vượt qua được giai đoạn nguy kịch nhất.

   Bác sĩ cũng nói “phép lạ” đã xảy ra …

   Cho đến hôm nay, mọi chuyện mới qua đi hơn một năm. Nhìn lại, anh Cẩn có cảm giác thời gian đó dài lắm! Hiện tại, anh vẫn tiếp tục sống bình thản. Anh vẫn cùng bác sĩ tiếp tục theo dõi căn bệnh.

   Anh Cẩn bảo rằng nó có thể quay lại bất cứ lúc nào, nhưng anh tự hào là đã chiến thắng được nó một lần. Điều quan trọng là anh không còn bận tâm đến nó nhiều nữa.

   Không ai có thể biết chắc chắn là ngày mai chúng ta có còn sống hay không.

   Như vậy, đâu là sự khác biệt giữa một người ngày mai chết vì ung thư và một người ngày mai chết vì bất cứ một lý do nào đó, một tai nạn xe cộ chẳng hạn?

   Vậy thì hãy sống trọn vẹn ngày hôm nay là được rồi.

   Tôi hỏi đâu là “phép lạ” trong trường hợp của anh? Anh Cẩn cho rằng đó là sự kết hợp nhiều yếu tố. Có thể là do anh có một bác sĩ giỏi, và anh biết cách làm việc với bác sĩ của mình. Có thể là do khi anh giữ được cái tâm bình an rồi, toàn bộ năng lượng trong con người anh dùng để hồi phục những tế bào ung thư.

   Trong việc điều trị ung thư vào giai đoạn đã di căn thì y học chỉ đóng góp chừng phân nửa vào kết quả. Phân nửa còn lại dành cho những yếu tố mà khoa học chưa thể lý giải hết, như niềm tin, sức mạnh của cái tâm bình an …

   Giải thích tại sao vị thầy có thể trao cho anh được sự bình an, bước ngoặc của cuộc đời mình, anh Cẩn cho rằng đầu tiên là vì anh đã đặt niềm tin tuyệt đối vào Ngài. Cộng với thầy của anh có năng lực của tâm để truyền cho anh. Còn anh cũng hết lòng nhận.

 

   “Dĩ tâm ứng tâm” có lẽ là vậy đó.

   Khi cả người cho lẫn người nhận đều mở rộng tâm của mình để hướng vào nhau, “phép lạ” của tâm linh sẽ xảy ra …

   Chia tay với anh Cẩn, tôi cảm ơn anh vì câu chuyện của anh là một món quà lớn dành cho tôi. Anh Cẩn mong rằng những điều tôi ghi lại được sẽ phần nào giúp đỡ những ai đang phải đối diện với căn bệnh ung thư như anh. Đừng bỏ cuộc. Đừng đóng cửa lại với cuộc sống.

   Thông điệp của anh là Hãy tạo cho mình một niềm tin và một cái tâm bình an”. Tôi nghĩ thông điệp này đâu chỉ dành cho người bệnh, mà còn dành cho tất cả chúng ta, những người đang sống trong một thời đại đầy biến động này.

 

   Đoàn Hưng

  California, Hoa Kỳ - 2009



 



LÀM LẠI TỪ ĐẦU

Liên Hoa Sắc (Utpalavarṇā) là một mỹ nữ sắc nước hương trời, sanh ra trong một gia đình vô cùng giàu có ở thành Vương Xá, nhưng lại có số phận gian truân, lưu lạc, đoạn trường không khác nàng Kiều của cụ Nguyễn Du.

Năm mười sáu tuổi, cô lấy chồng là một thanh niên ở làng Ưu Thiện Na, sanh hạ được một đứa con gái. Chưa được bao lâu, cha chồng qua đời, mẹ chồng còn trẻ đẹp nên đã sanh tật, quyến rũ cả con trai mình và biến nàng dâu thành người đày tớ. Quá uất hận và cũng quá xấu hỗ khi sống trong một gia đình mất hết luân thường đạo lý, nàng đã bỏ nhà ra đi, để lại đứa con thơ cho chồng.

Nàng đến lập nghiệp ở thành Ba La Nại. Tại đây, do nàng còn quá trẻ và quá đẹp nên đã phải lòng một trưởng giả giàu có. Hai người tổ chức đám cưới và sống rất hạnh phúc một thời gian. Một lần nọ, ông trưởng giả có công việc làm ăn ở làng Ưu Thiện Na. Tại đây, ông gặp một thiếu nữ cũng có sắc nước hương trời nên đã bỏ ra hai vạn lượng vàng để được cưới nàng làm thiếp. Trớ trêu thay, khi đưa thiếp về nhà, Liên Hoa Sắc hỏi ra mới biết đó chính con ruột của mình!

Trước đây là nghịch cảnh mẹ chồng lấy chồng mình, bây giờ thì người chồng sau của mình lại lấy con gái của mình trước đây, hai mẹ con ruột lấy một người, Liên Hoa Sắc đau khổ tột cùng, không còn niềm tin vào cuộc sống, vào cái gọi là hạnh phúc gia đình. Quá đắng cay, quá phủ phàng, quá bất hạnh, Liên Hoa Sắc quyết định thêm một lần nữa bỏ nhà ra đi. Nàng đến thành Tỳ Xá Li và dấn thân vào con đường giang hồ, gia nhập vào làng chơi và trở thành một dâm nữ nỗi tiếng dụ dỗ đàn ông. Nàng quyết trả thù đời. Đã có không biết bao nhiêu người đàn ông sa ngã, bao gia đình tan nát bởi sức đẹp quyến rũ và mê hoặc của nàng.

Tháng ngày trôi qua, Liên Hoa Sắc lấy việc quyến rũ đàn ông mua vui cho quên hết sự đời khổ đau, tủi nhục. Chưa dừng lại ở đó, nàng còn quyến rũ, mê hoặc luôn cả những đạo sĩ, tu sĩ, những người đã xuất gia. Một lần nọ, nàng về thành Vương Xá, đứng đón ở một đoạn đường mà tôn giả Mục Kiền Liên sẽ đi khất thực ngang qua với âm mưu sẽ lung lạc ngài. Thế nhưng, tôn giả Mục Kiền Liên đạo cao, đức trọng, đâu phải là hạng người dễ dụ dỗ. Thấy Liên Hoa Sắc xinh đẹp lại đi làm nghề đứng đường, tôn giả ân cần khuyên nhủ:

- Cô diện mạo xinh đẹp thế kia, phục sức lại vô cùng lộng lẫy, lẽ nào cô không kiếm được một tấm chồng để nương nhờ mà lại dấn thân vào con đường tội lỗi này?

Âm thanh, lời nói của tôn giả Mục Kiền Liên quá nhẹ nhàng, quá đức độ, như nước cam lồ mát mẻ thanh lương rót vào tâm hồn một kỹ nữ bấy lâu chất chồng thù hận, khiến cho bao nhiêu lửa oán hờn phút chốc tắt lịm. Liên Hoa Sắc mất hết tính cách của một gái giang hồ, trở lại nguyên hình một cô gái xuất thân sang giàu nhưng gian truân, bất hạnh. Nàng xúc động, bật khóc và tâm sự cuộc đời oan trái của mình cho Tôn giả Mục Kiền Liên nghe, rồi nói:

- Bạch thầy! Cuộc đời quá độc ác, quá bất công, đã xô đẩy con vào con đường khổ đau và tội lỗi này. Con đã không còn lối thoát. Con biết phải làm gì hơn?

- Hãy làm lại từ đầu. Tôn giả Mục Kiền Liên ân cần khuyên nhủ. Liên Hoa Sắc cay đắng nói:

- Kẻ như con mà cũng còn cơ hội làm lại từ đầu sao?

- Quá khứ đã đi qua, không bao giờ trở lại. Nhưng giả sử có phép mầu xuất hiện, đưa chúng ta về quá khứ, về thời điểm khởi đầu, chưa chắc chúng ta sẽ sống tốt hơn những gì mình đã sống qua, chưa chắc chúng ta có thể làm tốt hơn những gì chúng ta đã làm. Nhưng có một điều mà chắc chắn chúng ta sẽ làm được, là ngay từ bây giờ, ngay từ giờ phút này, chúng ta hãy sống cho thật tốt. Hãy làm lại từ đầu ngay từ giờ phút này.

Ở đời chỉ có hai hạng người mạnh nhất. Đó là người không có lỗi lầm và người có lỗi lầm mà biết sửa đổi. Cho nên, cái đáng sợ không phải là lỗi lầm, mà là cái tâm không biết ăn năn hối cải, không biết tàm quý, không có ý chí nghị lực đứng lên sau khi bị vấp ngả. Con người ngả xuống đất thì phải biết chống đất mà đứng lên, còn nếu đã lỡ lầm vụng dại thì hãy đem tâm sám hối.

Những lời dạy dỗ, khuyên răn của Tôn giả Mục Kiền Liên đã thức tỉnh tâm linh của Liên Hoa Sắc. Nàng xin xuất gia, và chẳng bao lâu, dưới sự hướng dẫn của quý Ni sư, Liên Hoa Sắc chứng quả A La Hán, trở thành người có thần thông đứng nhất trong hàng Ni chúng.

Bình luận:

Biết bao nhiêu người trong xã hội của chúng ta có hoàn cảnh như Liên Hoa Sắc? Hay vì những lý do nào đó mà trở thành gái giang hồ như Liên Hoa Sắc? Và chúng ta đã đổ hết trách nhiệm lên người khác, lên xã hội, lên những người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa đẩy chúng ta vào con đường đen tối, hoặc đơn giản là vì số phận. Và chúng ta yên bề trong cái hoàn cảnh hay số phận nghiệt ngã đó.

Đạo Phật thì không chấp nhận cách sống, cách suy nghĩ như vậy. Đành rằng cuộc sống là sống cùng xã hội, với cái cộng nghiệp; nhưng đồng thời mỗi chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm với cái biệt nghiệp của mình. Đạo Phật tin rằng không ai làm cho mình ô nhiễm và cũng chẳng ai cho mình sự thanh tịnh, mà chỉ có bản thân mình tự làm cho mình trở nên thanh tịnh hoặc ô nhiễm. Nếu có số phận, hay khổ đau là hệ lụy muôn đời, thì Liên Hoa Sắc chắc chắn không thể thành một thánh giả A La Hán, người đoạn sạch khổ đau, phiền não, hiện chứng niết bàn.

Cho nên, hãy bỏ qua quá khứ, nhất là những quá khứ đau thương, muộn phiền. Và hãy làm lại từ đầu, từ giờ phút này, bằng với cái tâm thanh tịnh, hãy làm cho lời nói, hành động của mình trở nên lương thiện.

Thích Nguyên Hùng


 

 

 

 


  

  LUÂN HỒI

   Thuở xưa, vào triều đại nhà Lương ở Trung Hoa có Thiền Sư Chí Công là một bậc Đại Đức cao tăng. Không sử sách nào ghi lại song thân của Thiền Sư là ai. Người ta thường kể với nhau rằng: Một hôm nọ, có người phụ nữ nghe tiếng khóc của một hài nhi trên cành cây cao. Cô ta trèo lên, thấy một hài nhi nằm trong tổ chim ưng, bèn đem hài nhi về nuôi. Tuy thân thể hài nhi này hoàn toàn giống như người nhưng những móng tay, móng chân giống như móng chim ưng. Khi trưởng thành, xuất gia tu đạo, chứng được ngũ nhãn lục thông. Không biết cha mẹ Ngài là ai, chỉ biết Ngài sinh trong tổ chim ưng nên mọi người đều phỏng đoán Ngài được sinh ra từ trứng chim ưng vậy.

   Thời ấy, vua Lương Vũ Đế cũng như mọi người đều rất kính trọng và tin phục các Thiền Sư. Bất luận khi họ gặp những sự kịên gì trong đời sống, như sinh con, cha mẹ qua đời, cưới hỏi… họ đều cung thỉnh các Thiền Sư đến để tụng kinh chú nguyện.

 

   Một hôm, có một gia đình giàu có thỉnh Thiền Sư đến tụng kinh chú nguyện nhân dịp đám cưới người con gái của họ, đồng thời thỉnh Thiền Sư ban cho vài lời chúc mừng để mong rằng trong tương lai, việc hôn nhân đều được tốt lành như ý. Thiền Sư Chí Công đến nhà ấy, khi nhìn thấy cô dâu chú rể, Ngài liền nói:

   “Thật cổ quái, thật cổ quái!”

   “Cháu cưới bà nội”

   Thật cổ quái” nghĩa là xưa nay chưa từng có một việc như vậy. Đây không phải là chuyện xưa nay thường xảy ra. Thật kỳ lạ khi nhìn một đứa cháu cưới bà nội mình làm vợ. Trên thế gian này, nếu không thông đạt những nhân duyên trong thời quá khứ thì không thể nào lý giải được những mối quan hệ cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em, bè bạn… của nhau. Vì sao? Vì mọi người đều có thể là chồng hoặc vợ của nhau trong đời trước. Một người có thể là cha hoặc là con của nhau trong nhiều đời trước. Hoặc một người đều là mẹ và con gái của nhau trong đời trước. Ông nội của quí vị trong đời trước lại kết hôn với cháu gái của quí vị trong đời này. Hoặc là bà ngoại đời trước lại tái sinh làm con gái của quí vị. Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra, và đều chịu sự biến hóa khôn lường.

   Trong nhà này, chuyện “cháu cưới bà nội” là do trước kia, khi bà nội sắp mất, bà trăn trối lại với toàn gia quyến: “Con trai ta vừa mới cưới vợ và đã có con nối dòng. Con gái ta cũng đã có chồng, ta không còn bận tâm gì nữa”. Bà ta hoàn toàn thỏa mãn và đã gạt mọi sự bận tâm qua một bên, ngoại trừ một điều: còn đứa cháu nội, “tương lai rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc nó? Liệu người vợ của nó có đảm đang hay không? Ta không thể nào không lo cho nó được!”

   Bà nắm tay đứa cháu nội và qua đời. Người ta bảo rằng nếu mọi việc đều toại nguyện, lúc lâm chung có được tâm trạng thơ thới thì người chết sẽ nhắm mắt. Còn nếu không, thì người chết không nhắm mắt được. Bà lão nói: “Bà rất lo lắng cho cháu, bà chết không nhắm mắt được”. Nói xong, bà ra đi mà mắt vẫn mở. Thần thức của bà vẫn còn lo âu. Khi đến gặp Diêm Vương, bà ta than khóc, thưa rằng:

   - Tôi còn đứa cháu nội, không ai chăm sóc nó.

   Diêm Vương đáp:

  - Được rồi, bà hay trở lại dương gian chăm sóc cho nó

   Nói xong, bà ta được đầu thai trở lại trong cõi trần. Khi đến tuổi thành hôn, bà ta lấy người cháu nội trước đây của bà ta. Vì vậy nên nói “cháu lấy bà nội”. Quí vị thấy có phải là cổ quái thật không?

   Chỉ vì một niệm ái luyến không buông xả được mà tạo nên biết bao duyên nghiệp buộc ràng về sau. Bà ta chỉ vì bận tâm vì đứa cháu, mà về sau phải làm vợ cho nó. Quí vị thử nghĩ lại xem, đây chẳng phải là chuyện cổ quái hay sao?

   Quí vị sẽ hỏi: “Làm sao mà Thiền Sư Chí Công biết được điều ấy?” Thiền Sư biết được là vì Ngài đã đạt được ngũ nhãn và lục thông. Nên chỉ cần nhìn qua, là Ngài liền biết được ngay kiếp trước của cô dâu vốn là bà nội của chú rể. Chỉ vì bà nội đã khởi một niệm ái luyến sai lầm nên nay phải đầu thai trở lại làm người, và làm vợ của đứa cháu nội mình. Một niệm lành còn như thế huống gì là niệm ác, hoặc khởi trùng trùng niệm ác thì luân hồi trong tam đồ lục đạo biết bao giờ dứt, biết bao giờ mới mong ra khỏi.

   Thiền Sư lại nhìn trong số khách đến dự đám cưới, có một bé gái đang ăn thịt, Ngài nói: “Con gái ăn thịt mẹ”.

   Vì miếng thịt mà em bé đang ăn là thịt dê, con dê này vốn là mẹ của em bé đầu thai lại. Kiếp trước bà ta đã tạo nghiệp ác quá lớn nên đã phải đọa làm dê. Nay lại bị chính con mình ăn thịt. Vòng oán nghiệp khởi dậy do vô minh của chúng sinh không lời nào kể hết được. Chư Bồ Tát thương xót, phát tâm cứu độ chúng sinh là do điểm này.

   Khi Thiền Sư nhìn các nhạc công, thấy có vị đang đánh trống. Ngài nói:

   “Con trai đang đánh bố”.

   Vì cái trống ấy bịt bằng da lừa. Con lừa này chính là cha của anh nhạc công đầu thai vào. Con lừa này bị giết thịt, lấy da làm mặt trống. Thật là đau thương cho kiếp luân hồi.

   Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp:

   “Heo dê ngồi ở trên”

   Ngài thấy có vô số loài heo, cừu, dê, gà được đầu thai trở lại làm người, nay họ đều là bà con thân quyến của nhau nên cũng đến dự đám cưới này.

   Nhìn trong bếp, Ngài nói:

   “Lục thân bị nấu trong nồi”.

   Chính là cha mẹ, anh em, bà con, bè bạn do kiếp trước đã sát sinh heo, gà quá nhiều để ăn, nay lại bị đọa làm heo, dê, gà trở lại; rồi bị giết thịt, bỏ vào nồi chiên nấu trở lại.

   Ngài nói tiếp:

   “Mọi người đều vui vẻ chúc mừng nhau”

   Mọi người đến dự đám cưới đều rất vui vẻ mà chúc tụng nhau. Ngài tự than với mình rằng:

   “Trông thấy cảnh ấy mà lòng đau xót, ta biết đó chính là những oán nghiệp xoay vần vay trả, tạo nên nỗi khổ chất chồng”.

   Thiền Sư Chí Công biết rõ nhân quả khi nhìn vào gia đình này. Làm sao chúng ta có thể hiểu được hết chuỗi nhân quả của từng gia đình với trùng trùng khác biệt nhau ra sao. Cho nên những người tu đạo phải rất cẩn trọng trong khi tu nhân, vì khi nhân duyên chín mùi sẽ gặt lấy quả tương ứng với nhân đã gieo. Tại sao người lại trở lại làm người? Là để trả nợ, trả những món nợ nhân quả ở thế gian. Nếu quí vị không tìm cách trả món nợ này thì nợ nần vẫn tiếp tục, như món nợ đã vay của ngân hàng vậy.

   Tôi nhớ một câu chuyện này nữa. Có một gia đình nuôi một con lừa, dùng nó để kéo cối xay và chuyên chở. Người chủ thấy lừa quá chậm chạp nên thường dùng roi đánh nó để thúc giục. Con lừa làm việc miệt mài trong cực nhọc cho đến khi chết. Nó được đầu thai làm người. Khi người chủ hay đánh đập lừa chết, lại đầu thai làm một người phụ nữ. Khi cả hai người này đến tuổi thành hôn thì họ cưới nhau.

 

   Quí vị có biết cặp vợ chồng này sống với nhau như thế nào không? Suốt ngày người chồng đánh đập người vợ. Ông đánh vợ bất kỳ lúc nào, bất luận đang cầm vật gì trên tay, cả lúc đang ăn cơm cũng đánh vợ bằng đũa. Ông ta vừa đánh vừa chửi, cho dù người vợ chẳng làm điều gì sai trái.

   Một hôm Thiền Sư Chí Công đi qua nhà họ. Người phụ nữ bèn thưa với Ngài:

   - Chồng con ngày nào cũng đánh và chửi con qúa chừng mà con không biết tại sao. Bạch Ngài, xin Ngài hãy dùng ngũ nhãn, lục thông bảo cho con biết mối tương quan nhân quả của chúng con đời trước ra sao mà đời này chồng con đánh đập và chửi mắng con hoài vậy?

   Thiền Sư Chí Công đáp:

   - Tôi sẽ nói rõ tương quan nhân quả của hai người cho mà nghe. Trong đời trước, bà là một người đàn ông. Ngày nào bà cũng đánh đập chửi mắng con lừa, thúc giục nó phải kéo cối xay bột.

   Ông chủ ấy thường đánh con lừa bằng cái chổi tre. Nay ông chủ được đầu thai lại làm người phụ nữ, đó chính là bà. Còn con lừa thì được đầu thai làm người chồng. Nay ông ta thường hay đánh đập chửi mắng bà cũng như kiếp trước bà đã thường đánh chửi ông tức là con lừa vậy. Nay bà đã hiểu rõ nhân quả tương quan với nhau rồi, tôi sẽ bày cho một cách để chấm dứt vòng oán nghiệp này. Bà hãy cất giấu tất cả mọi dụng cụ trong nhà ngoại trừ cái chổi đuôi ngựa (chổi dây). Khi người chồng thấy chẳng còn vật gì dùng để đánh cô, anh ta sẽ cầm chổi dây này để đánh. Cứ để cho anh ta đánh vài trăm roi, thì nợ cũ của bà mới được trả. Lúc đó, bà mới báo cho anh ta biết nhân đời trước và quả đời sau báo ứng với nhau rất rõ ràng như tôi vừa giải thích cho bà. Anh ta sẽ không còn đánh bà nữa.

   Người phụ nữ làm đúng như lời Thiền Sư Chí Công chỉ dạy. Khi người chồng về đến nhà, ông ta liền kiếm vật gì đó để đánh vợ. Chỉ còn thấy chiếc chổi đuôi ngựa, ông ta cầm lấy và đánh. Thông thường như mọi khi, cô ta tìm cách chạy trốn. Nhưng lần này cô ta kiên nhẫn ngồi đó chịu đòn cho đến khi ông chồng ngừng tay.

   Thấy lạ, ông ta hỏi tại sao bà không bỏ chạy. Cô ta kể lại việc được Thiền Sư Chí Công giải thích cặn kẽ tương quan nhân quả của hai người. Ông chồng nghe xong ngẫm nghĩ: “Như thế thì từ nay ta không nên đánh chửi cô ta nữa. Nếu còn đánh, thì kiếp sau cô ta sẽ đầu thai trở lại rồi tìm ta để đánh chửi”. Từ đó ông chồng không còn đánh mắng người vợ nữa.

   Thế nên quí vị phải biết mọi người đều có sự quan hệ với nhau tương ứng với nhân đã tạo. Quí vị chẳng thể nào biết được trong đời trước, ai đã từng là mẹ, là anh, là cha hay là chị em của mình. Cái nhân đã tạo ở đời trước sẽ tạo thành quả đời này và nhất định có liên quan đến bà con quyến thuộc của mình. Nếu quí vị hiểu được đạo lý nhân quả, thì quí vị có thể chuyển hóa, biến cải được nhân bằng cách từ bỏ những việc ác.

   Còn một chuyện nữa về Thiền Sư Chí Công. Một ngày Ngài ăn hai con chim bồ câu. Ngài rất thích món ăn này. Người đầu bếp nghĩ rằng món thịt bồ câu chắc là rất ngon nên ngày nọ anh ta quyết định nếm thử. Anh ta làm việc này với hai ý nghĩ: một mặt là muốn thử xem thức ăn hôm nay mình làm có ngon hay không? một mặt khác anh ta nghĩ rằng Ngài Chí Công ngày nào cũng thích ăn bồ câu, nhất định đây là một món ăn rất ngon, nên muốn thưởng thức một chút rồi mới đem đến cho Thiền Sư dùng.

   Khi người đầu bếp mang thức ăn đến. Ngài nhìn đĩa thức ăn và hỏi:

   - Hôm nay có ai nếm trộm thức ăn này? Có phải chính anh không?

   Người đầu bếp liền chối. Thiền Sư liền bảo:

   - Anh còn chối. Tôi sẽ cho anh thấy tận mắt ai là người nếm trộm. Hãy nhìn đây!

   Ngài liền ngồi ăn. Ăn hết hai con bồ câu rồi, Ngài liền há miệng rộng, trong đó, một con bồ câu liền vẫy cánh bay ra còn con kia thì bị mất một cánh, không thể bay lên được.

   Thiền Sư mới bảo:

   - Anh thấy đó, nếu anh không nếm trộm thì tại sao con bồ câu này không thể bay được?

   Chính là vì ông đã ăn hết một cánh của nó.

   Chuyện này làm cho anh đầu bếp biết Thiền Sư Chí Công không phải là người thường. Ngài chính là hóa thân của Bồ Tát. Thế nên Ngài có năng lực biến những con bồ câu bị nấu thành thức ăn rồi thành bồ câu sống. Không phải là Bồ Tát, không làm chuyện này được.

    Thiền Sư Chí Công còn thường ăn một loại cá gọi là Tuệ Ngư. Cũng đem cá ra nấu nướng rồi Ngài ăn từ đuôi lên đầu. Nhưng sau đó Ngài lại há miệng ra làm cá sống lại. Vì vậy, những việc này là rất thường đối với cảnh giới của hàng Bồ Tát. Thiền Sư Chí Công là một vị Bồ Tát, nhưng không bao giờ Ngài nói: “Các ngươi biết không, ta là một vị Bồ Tát, ta đang giáo hóa chúng sanh, ta có đại nguyện này, hạnh nguyện kia…” Các vị không bao giờ mong khởi ý niệm ấy. Cho nên chúng ta là hàng phàm phu, dù có thấy Chư Phật hay Bồ Tát cũng không thể nào nhận biết được. Việc làm của Bồ Tát cũng gần như hành xử của người thường, nhưng thực chất lại không giống nhau. Là vì phàm phu khi hành động chỉ nghĩ đến lợi ích của chính mình, không nghĩ đến sự giúp đỡ cho người khác. Còn Bồ Tát thì chỉ nghĩ đến lợi ích của người khác mà không nghĩ đến mình. Khác nhau là ở điểm này. Bồ Tát thì tự làm lợi ích cho mình còn lo làm lợi ích cho người khác. Tự giác ngộ mình xong rồi giúp cho người khác giác ngộ. Tự độ hoàn toàn, lợi tha hoàn toàn. Ý nghĩa của chú Đại Bi mà tôi đang giảng cũng nằm trong đạo lý này vậy.

 


 

 CÔNG ĐỨC NIỆM PHẬT

   Trong Kinh nói: 'Người nào chí tâm niệm Phật, được 10 món công đức lợi ích như sau:


1/ Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, Đức Phật A Di Đà phóng quang nhiếp thọ.
2/ Thường được 25 vị Đại Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm thủ hộ.
3/ Ngày đêm thường được chư Thiên cùng đại lực Thần tướng ẩn hình ủng hộ.
4/ Tất cả dạ xoa, ác quỷ, rắn độc, thuốc độc đều không thể làm hại.
5/ Không bị những tai nạn: nước, lửa, đao, tên, gông, xiềng, lao ngục, giặc cướp, oan gia, cùng các thứ chết dữ.
6/ Những tội đã làm thảy đều tiêu diệt, những kẻ chết oan vì mình đều được giải thoát, không còn kết oán ràng buộc.
7/ Ban đêm nằm ngủ thường thấy điềm lành, hoặc thấy sắc thân thắng diệu của Phật A Di Đà.
8/ Tâm thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận, khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp lợi ích.
9/ Mọi người trông thấy đều vui mừng, cung kính hoặc lễ bái cũng như kính Phật.
10/ Khi mạng chung, tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được Tây Phương Tam Thánh
tiếp dẫn sanh về Tịnh Độ hưởng sự an vui không cùng !

    Trong Kinh lại có nói:

·        Chí tâm niệm 1 câu A Di Đà, tiêu diệt được tội nặng sanh tử trong 80 ức kiếp' (Quán Kinh).

·        Chí tâm niệm 1 câu A Di Đà, ánh sáng phát ra xung quanh mình 40 dặm, các loài ác ma đều sợ hãi xa lánh.

Có sách nói:


“Niệm Phật 1 câu, phước tăng vô lượng
  Lễ Phật 1 lễ, tội diệt hà sa
“.


                                                                                                             


 

   Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói rằng: "Chết là một phần tự nhiên của sự sống - Chết không có gì bất công và đáng sợ vì ai rồi cũng phải chết và chết không phải là “mất hẳn”. Tuy nhiên không ai biết trước là mình sẽ chết vào lúc nào và chết ra sao? Vì thế, tốt nhất là ta nên chuẩn bị. Hãy xem sự chết như là một sự đi xa. Tại sao mọi người đều biết rõ là người đi du lịch thường chuẩn bị trước nhiều thứ trước khi đi mà lại không biết chuẩn bị trước cho mình nhiều việc trước khi cái chết sẽ phải đến?”

CƯ SĨ DIỆU ÂM.pdf CƯ SĨ DIỆU ÂM.pdf
Size : 982.199 Kb
Type : pdf
14 ĐIỀU RĂN CỦA PHẬT.pdf 14 ĐIỀU RĂN CỦA PHẬT.pdf
Size : 176.24 Kb
Type : pdf
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO 1.pdf TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO 1.pdf
Size : 1159.362 Kb
Type : pdf
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO 2.pdf TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO 2.pdf
Size : 1430.832 Kb
Type : pdf
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO 3.pdf TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO 3.pdf
Size : 1268.097 Kb
Type : pdf
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO 4.pdf TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO 4.pdf
Size : 946.167 Kb
Type : pdf
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO 5.pdf TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO 5.pdf
Size : 1275.903 Kb
Type : pdf
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO 6.pdf TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO 6.pdf
Size : 1235.039 Kb
Type : pdf
10 ĐIỀU THIỆN.pdf 10 ĐIỀU THIỆN.pdf
Size : 109.955 Kb
Type : pdf
ĐỊA NGỤC DU KÝ.pdf ĐỊA NGỤC DU KÝ.pdf
Size : 765.416 Kb
Type : pdf
ẢO HÓA.pdf ẢO HÓA.pdf
Size : 248.747 Kb
Type : pdf
 
CÕI TA BÀ VÀ CỰC LẠC.pdf CÕI TA BÀ VÀ CỰC LẠC.pdf
Size : 220.132 Kb
Type : pdf
NƠI NGHIỆP PHÁT XUẤT.pdf NƠI NGHIỆP PHÁT XUẤT.pdf
Size : 323.427 Kb
Type : pdf
Make a Free Website with Yola.